
Tháng Bảy Chưa Mưa (thơ Y Dịch, nhạc Phạm Anh Dũng) Tuấn Ngọc hát, Duy Cường hòa âm, Hoàng Khai Nhan video:
https://www.youtube.com/watch?v=UtcgCHfYebI&list=PL0FJzQa1Qa89Adj2-mQoD_75g_TjBPWr2
Giòng Nhạc Phạm Anh Dũng (Châu Đình An):
https://phamanhdung.wordpress.com/2014/02/26/giong-nhac-pham-anh-dung-chau-dinh-an/
*******************
Chị Dung
Chị ruột yêu thương của tôi, tên là Phạm Thị Dung và các bạn chị gọi là Phạm Dung hay Phạm Dung-Lê Đình Điểu (ghép tên chồng vào), nhưng tôi chỉ thích gọi hay viết: chị Dung. Anh Điểu, anh rể tôi, viết nhiều thơ bút hiệu là Y Dịch.
Chị vừa qua đời, tôi bàng hoàng và vì mất chị thành muốn viết vài hàng.
Gia đình tôi tất cả 13 anh em, nay không có chị nữa, chỉ còn 3 và anh chị em tôi không ai có thể so được với chị. Từ ngày xưa còn bé cho đến bây giờ, lúc nào tôi cũng xem chị như một tấm gương sáng để theo.
Chị Dung ít nói nhưng nghiêm và tôi chắc chắn các anh chị em chúng tôi đều nể phục nghe lời chị, dù chị không phải là con trưởng ở gia đình. Riêng tôi, tôi còn “sợ” chị vì hồi nhỏ hay bị khảo bài trước khi đi học. Có lẽ vì vậy sau này tôi học cũng tạm đâu vào đấy. Thú thật trong nhà chỉ có chị Dung và anh Vân (cũng qua đời lâu rồi) là đáng kính cảm phục, còn lại đám anh chị em trước sau, kể cả bản thân tôi đều không nhiều thì ít đều không hoàn toàn.
Chị nghiêm nhưng chị cũng rất hiền, rất tốt với mọi người, giúp đỡ tất cả kể cả người lạ nhưng không may. Điểm này chị giống mẹ chúng tôi y hệt. Cụ đã hết tiền dành dụm vì nấu cháo cho người đói ăn hồi nạn đói năm Ất Dậu.
Chị Dung rất thích âm nhạc. Chị đã từng đậu vào Quốc Gia Âm Nhạc, chị thích học mandolin, nhưng nhà không đủ điều kiện để chị học cả chữ và nhạc.
Chị học Trưng Vương, ra trường đậu Tú Tài hạng cao được học bổng đi Hoa Kỳ học.
Trước đó chị bắt đầu quen với anh Điểu và hai người yêu nhau. Khi chị đi Hoa Kỳ năm 1961, với bút hiệu Y Dịch, anh có làm bài thơ Tiễn Em và tôi có viết thành bài nhạc Tháng Bảy Chưa Mưa năm 1992.
Lúc đó còn một kỷ niệm vui là “ai” chụp ảnh chị đang đi xe velosolex đăng lên National Geographic tháng 10 năm 1961, sau khi chị đã đi. Chị không nói, mãi đến sau này tôi mới biết.
Năm 1963, chị tốt nghiệp BS of Nursing và lấy được bằng hành nghề Registered Nurse. Khi về nước chị đi dạy Nursing ở trường Cán Sự Điều Dưỡng và dạy Anh Văn ở Hội Việt Mỹ. Anh Điểu, chồng chị, làm đến Cục Trưởng Cục Nội Vụ của Tổng Cục Thông Tin Chiêu Hồi nhưng vẫn không đủ sống thoải mái vì chị vẫn phải giúp đỡ cha mẹ và các anh chị em.
Chị Dung hiền không trách ai bao giờ. Hiền đến nỗi chỉ thở dài, không trách cứ ai, kể cả nhưng người tưởng là bạn nhưng đã làm hại đến chồng con, gia đình mình. Tôi chưa hề thấy chị nói xấu người khác bao giờ.
Nhưng chị cũng rất vững vàng. Sau “giải phóng” 1975, chị mất việc và ở nhà nuôi 3 đứa con bằng cách thổi xôi bán chợ trời khi chồng đi học cải tạo. Khó tưởng tượng và thật là kiên trí, mẹ bồng bế 3 con lôi thôi lếch thếch vượt biên 9 lần, vài lần bị bắt tù, mà vẫn không thoát!
Sau những cái rủi cũng đến cái may. Rồi sau gia đình cũng may qua được Pháp 1983, khi anh Điểu đi học tập về, vì bố chồng chị ngày xưa là Trung Úy Quân Đội Pháp và dù cụ đã qua đời rồi chính phủ Pháp vẫn lo cho gia đình đi.
Tôi đón gia đình anh chị qua Hoa Kỳ năm 1985. Anh Điểu theo nghề ký giả cho báo Việt, nghề bạc bẽo, bận, không có tiền và thỉnh thoảng còn bị “chụp mũ”. Căn bản là lương của chị Dung hành nghề school nurse. Vợ chồng sau cũng mua được nhà cửa ở Bellflower, giữa Orange County và Los Angeles. Gia đình, con cái… hầu như mọi sự do chị lo để anh đi lo chuyện “vác ngà voi”.
Rồi anh Điểu qua đời 1999 vì bệnh bất ngờ và chị Dung “ở vậy” từ đó đến nay, kể cả khoảng 10 năm ở một mình trong căn nhà cũ đầy kỷ niệm. Những năm sau này có con cháu về ở chung cũng đỡ vắng vẻ hơn.
Khoảng 2 năm rưỡi trước đây, chị được bác sĩ cho biết là bệnh nặng cần hóa quang trị và giải phẫu. Chị qua các trị liệu dễ dàng. Nhưng khoảng sáu tháng sau này bệnh quay lại và lần này có không thuốc chữa được.
Ba ngày trước, cháu Y Sa, con gái chị gọi điện thoại cho biết tin dữ. Dù biết chuyện không tránh được, tôi nghẹn lời không nói ra lời và phải cúp điện thoại. Hôm nay nghĩ và viết những dòng này mới thấy chị là một con người thật “đẹp” và tôi dám chắc chị Dung đã dễ dàng siêu thoát về nơi cao, nơi có anh Điểu đang chờ đã 20 năm.
Chị Dung đã “đi xa” mãi mãi rồi!
Phạm Anh Dũng
ngày 29 tháng Tư năm 2019

********************
Tấm ảnh “Hình ảnh một buổi chiều”

Tôi vẫn thích sưu tầm ảnh đẹp. Nhìn ngắm một bức ảnh đẹp, thấy lòng mình như lắng xuống, thấy tâm hồn như dịu lại và cuộc sống như cũng dễ chịu hơn. Không chỉ thích ảnh đẹp tôi còn thích đặt tên cho ảnh. Nhiều ảnh không cần phải đặt tên, thế nhưng có đôi lúc gặp bức ảnh gợi nhiều cảm xúc tôi vẫn muốn tìm cho ảnh một cái tên.
Tấm ảnh tôi xem được ở nhà chị Dung là một ảnh như thế. Tấm ảnh khá quen thuộc với những người thân của chị. Tôi gọi tên ảnh là “Hình ảnh một buổi chiều”.
Tôi nhớ, trong chuyến đi Nam Cali ngắn ngày nhiều năm trước, chị Dung nhắn vợ chồng tôi ghé nhà chơi. Trước đó tôi được chị gửi tặng tập sách quý với chữ ký chỉ phác vài nét tên chị, cũng dung dị như tính cách của chị. Trong sách có cái “note”, chị nói phải gửi qua bưu điện vì chờ mãi chẳng thấy xuống để đưa tận tay. Tập sách đầy đặn, là “Tuyển tập Lê Đình Điểu”.
Chị Dung có lối nói chuyện thật tự nhiên và thân mật khiến người nào gặp chị lần đầu cũng cảm thấy thoải mái và gần gũi.
Hôm ấy tôi cũng được gặp những con người thật nghệ sĩ trong gia đình chị là chị Bích Huyền (phụ trách “Chương trình thơ, nhạc” quen thuộc đài VOA) và anh chị Phạm Anh Dũng (nhạc sĩ sáng tác, với nhiều ca khúc phổ thơ).
Sau bữa cơm gia đình là buổi “trà đàm” văn nghệ khá lý thú giữa mấy chị em trong nhà. Tôi không định nhắc tên anh Điểu, thế nhưng đến khi chị Bích Huyền đọc câu thơ trong bài thơ nào của Y Dịch,
Lần đầu em hát theo tà áo
Lần đầu anh bối rối bàn tay
tôi buột miệng hỏi chị cái lần “anh bối rối bàn tay” ấy có phải là “thuở ban đầu” của anh chị. Hỏi thế là có lý do, tôi nhớ có đọc đâu đó anh Điểu kể chuyện có lần anh phải đỏ mặt xấu hổ vì bị thầy giáo hay cô giáo trong lớp chị “bắt quả tang” anh lóng ngóng đứng chờ chị ngoài hành lang lớp học.
Tôi chỉ nhớ được mỗi câu lục bát của anh, bèn đọc cả nhà nghe và nói tôi thích câu thơ ấy vì rất gần với ca dao và thơ Nguyễn Bính.
Mùa thu có lá ngô rơi
Có đôi người mới thành đôi vợ chồng
Chị Dung nói chị cũng thích câu thơ ấy và anh chị đều thích thơ Nguyễn Bính. Rồi vui chuyện, chị kể thêm những bài thơ nào anh viết tặng chị, những bài hát nào hai người cùng thích, những cuốn phim nào hai người cùng xem như là những kỷ niệm ngọt ngào và cả những nơi chốn đầy những “dấu chân kỷ niệm” của anh chị kể từ ngày hai người gặp nhau, yêu nhau trong sân trường Văn khoa. Tôi nhớ chị nhắc tên phim “Vũ điệu trong bóng mờ” (La valse dans l’ombre) và tên bài hát “Tà áo Văn quân” của Phạm Duy Nhượng, như nhắc tôi nhớ ra rằng từng có một bài hát đẹp như thế trong nhạc Việt, kể về câu chuyện… “Một chàng phiêu lãng, ôm đàn tới giữa đời.“
Từ lúc ấy tôi chỉ có mê mải ngồi nghe và nghe, chỉ thỉnh thoảng góp chuyện. Tôi nhớ định nói chị nên viết hồi ký kể lại câu “chuyện hai người” ấy nhưng lại thôi, và chỉ nói thật tiếc là tôi đã không được gặp anh ngày trước.
Đến một lúc câu chuyện tạm ngưng, chị Dung bỗng đứng dậy nói vợ chồng tôi đi theo chị. Chúng tôi bước vào căn phòng nhỏ tĩnh lặng, được chị cho biết là phòng làm việc của anh Điểu. Chị nói từ ngày vắng anh, chị giữ nguyên trạng các vật dụng bày biện trong phòng, như là anh chỉ mới vừa đi xa. Thỉnh thoảng chị vào phòng lau chùi bụi bặm, kéo màn cửa cho ánh nắng rọi vào.
Đứng bên chị, tôi đưa mắt nhìn quanh. Những giá sách, thật nhiều sách, và những tranh ảnh rải rác. Tôi chú ý chiếc khung ảnh trên bàn làm việc của anh. Tấm ảnh đen trắng, mờ mờ. Chị đứng nép một bên vai anh, tựa đầu lên vai anh. Anh cúi nhìn chị, nụ cười ấm áp thương yêu. Cánh tay chị quàng lên vai anh, và bàn tay anh nắm giữ bàn tay chị. Anh có nụ cười thật hiền, chị có miệng cười thật đẹp, để lộ đường răng trắng. Trông anh chị như đôi chim bồ câu quấn quýt không rời.
Tôi đứng nhìn thật lâu, như bị hút vào tấm ảnh, tưởng nhìn thấy được hạnh phúc trên nét mặt chị, trên nụ cười chị và cả trên những lọn tóc chị. Tựa đầu lên vai anh, khuôn mặt chị nằm nghiêng, mái tóc cũng nằm nghiêng. Mái tóc anh từng yêu, từng viết thành bài thơ tặng chị. Tôi không nhớ bài thơ như thế nào nhưng nhớ rằng bên dưới cái tựa chỉ có một chữ “Tóc” ấy anh viết xuống câu dẫn vào bài nhạc “Hình ảnh một buổi chiều” của Lâm Tuyền và Dạ Chung, “Anh không giữ trong tay một kho tàng hay một danh vọng nào cả, anh chỉ giữ hình ảnh một buổi chiều, khi nắng vàng nhuộm mái tóc em.”
“Ảnh cũ lắm rồi,” chị Dung nói. Tôi nói tấm ảnh đẹp giống như bài thơ hay, chẳng bao giờ cũ cả. Tôi lại quên hỏi chị ảnh chụp lúc nào, ở đâu. Không gian ấy có thể là buổi sáng hay buổi chiều nhưng tôi cứ cho là buổi chiều vì nhớ dòng chữ anh Điểu ghi trên đầu bài thơ tặng chị. Nơi chốn ấy có thể là đồi cỏ hay cánh đồng nào ở miền quê. Xa xa, sau lưng hai người, là rặng núi mờ mờ.
Trong thoáng chốc, tôi thấy lòng mình như se lại. Tôi nghĩ đến những lần chị Dung một mình bước vào căn phòng vắng lặng ấy, một mình chị ngắm nhìn những kỷ vật nằm im lìm ấy, và cả tấm ảnh mờ mờ đánh thức trong chị những thoáng hạnh phúc mơ hồ, xa xăm. Chị giữ căn phòng ấy như giữ chút hơi ấm của người chồng muôn thuở.
Sau ngày anh mất, chị Dung đã có những năm sống một mình, lặng lẽ như chiếc bóng trong ngôi nhà đầy kỷ niệm ở Bellflower. Chị làm bạn với hoa lá trong mảnh vườn sau nhà, chị tận hưởng sự tĩnh lặng và cứ một mình một bóng như thế cho đến khi các con chị dọn về ở với chị.
Trở vào phòng khách, tôi nói đùa câu gì đó cho chị vui, nhưng không thấy chị cười. Chị lặng yên như đang suy nghĩ chuyện gì hay đắm chìm trong thế giới nào riêng tư.
Nhớ lần sau cùng tôi gọi điện thoại thăm chị Dung. Chị nói dạo sau này không được khỏe lắm, rồi chị nói sang chuyện khác. Chị Dung là vậy, chị chia sẻ niềm vui, chị giấu kín nỗi buồn. Chị không nói về mình, chị chẳng kể ai nghe, nhiều bạn bè chị không hề hay biết gì về bệnh tình của chị cho đến khi…
Hôm được tin chị mất, tôi tưởng mình nghe lầm, tôi mong là mình nghe lầm.
Cứ mỗi lần hay tin một người thân quen nào đột ngột qua đời, tôi lại có cảm giác thật hụt hẫng như vừa bước hụt vào khoảng không và nhận rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa đến tột cùng của đời sống.
“Thứ Bảy này cả nhà sẽ tiễn đưa chị Dung,” chị Bích Huyền nói với tôi đêm qua. Chị rưng rưng nói chị rất buồn và nhớ.
“Chắc giờ này chị Dung đã gặp lại anh Hà,” sau cùng chị Bích Huyền nói.
“Tôi cũng tin như vậy,” tôi nói vậy, rồi mở cánh cửa sau bước ra ngoài, ngước nhìn bầu trời đêm lác đác sao. Tôi dõi mắt trông về một ngôi sao xa nhất, khi ẩn khi hiện trên nền trời đen thẫm, trông xa vẫn thấy lấp lánh như có một linh hồn.
“Em đi rồi, anh trở về hồn lạnh, mắt sao rơi…“
Câu hát ấy ở trong bài nhạc phổ thơ Y Dịch, bài thơ “Tiễn em” anh viết tặng chị khi tiễn đưa chị lên đường du học Hoa Kỳ, là thời kỳ hai anh chị mới yêu nhau… thì xa nhau. Người phổ bài thơ ấy là em chị Dung, nhạc sĩ Phạm Anh Dũng.
“Hai nốt nhạc ‘sao rơi’ ấy nghe thật là mênh mang,” tôi nói với anh Dũng như vậy.
* * *
Chị Dung đã sẵn sàng và chuẩn bị mọi thứ cho chuyến đi xa của chị. Chị bình thản chờ đợi điều xấu nhất đến với mình; hơn thế nữa, chị mong đợi điều ấy đến với mình.
Chị mong đợi ngày ấy, như anh từng mong đợi chị, như anh và chị từng mong đợi nhau suốt những năm chị du học, suốt những năm anh tù tội. Anh và chị đã quen chờ đợi. Thế nhưng chị không thể bắt anh chờ đợi lâu hơn nữa.
“Mẹ để bố chờ lâu quá rồi, mãi đến 20 năm!” Chị Dung nói với cô con gái mình.
Hai mươi năm của chị Dung chỉ như bóng mây qua, chỉ như giấc mộng dài. Rồi anh chị lại có nhau, lại tay trong tay trên cánh đồng thời gian. Cũng như chị Bích Huyền và bao người thân yêu khác của chị Dung, tôi tưởng nhìn thấy anh đang dang rộng cánh tay về phía chị cùng với nụ cười ấm áp thương yêu, nụ cười thật hiền hệt như trong tấm ảnh ngày xưa ấy.
Anh Điểu “không giữ trong tay một kho tàng hay một danh vọng nào cả”, và chị Dung cũng chỉ giữ có mỗi tấm ảnh mờ mờ ấy. Tấm ảnh “Hình ảnh một buổi chiều”.
Lê Hữu
(*) Hà là tên gọi của anh Điểu trong gia đình.
*******************
Một số bài viết ngắn về Chị Dung, khi chị vừa qua đời:
Nước Lạnh (Bùi Bích Hà)
https://www.nguoi-viet.com/nhin-tu-little-saigon/nuoc-lanh/
Lời Yêu Thương Cho Dung (Trần Mộng Tú):
https://www.nguoi-viet.com/tuong-nho…uong-cho-dung/
Di Sản Quê Hương (Trùng Dương):
https://www.nguoi-viet.com/tuong-nho/di-san-que-huong/
Tâm Tình Của Bích Huyền
https://www.nguoi-viet.com/tuong-nho/tam-tinh-cua-bich-huyen/
Chị Dung đã “đi xa” mãi mãi rồi! (Phạm Anh Dũng)
https://www.nguoi-viet.com/tuong-nho/chi-dung-da-di-xa-mai-mai-roi/
********************
CHỊ DUNG – OLDER SISTER DUNG
My dear older sister’s name is Phạm Thị Dung, and her friends call her Phạm Dung or Phạm Dung – Lê Đình Điểu (combining her name with her husband’s). But I only like to refer to her as: “Chị Dung,” meaning “Older Sister Dung.”
She just passed away. I am shaken and just want to write down these thoughts.
We were initially 13 brothers and sisters and now without her, there are only three of us left, and nobody in our family can be compared to her. Since a child until today, I have always looked up to her as a great role model.
My sister Dung was not talkative and was stern. I am sure that all of us, brothers and sisters, including me, listened to her, although she was not our eldest sibling. As for me personally, I also “feared” her, because I used to be quizzed by her before I left for school. Probably thanks to her attention, I turned out to be an OK student. My sister Dung and Phạm Sĩ Vân, one of my brother (who passed away a long time ago) were admittedly worthy of my respect. The rest of us, either older or younger than me, and including myself, are more or less imperfect individuals.
Although she was stern, Dung was very nice and kind to everyone, ready to help anyone including strangers who met with unfortunate events. In this regard, she was exactly like our mother. Our mother had spent all her savings to cook porridge for the poor during the Ất Dậu Famine of 1945.
Dung had a passion for music. She enjoyed listening to music, especially the semi-classical kind. She loved playing the mandolin and graduated from the School of Popular Dance and Music as a vocalist. By default, she could have gone on to the National Institute of Music without an entrance exam. But our family was not well-to-do enough to afford both her general and musical educations.
So she attended and graduated from Trưng Vương High School in Saigon. She then received a scholarship to study in America.
Before finishing high school, she met her future husband Điểu, and they fell in love. When she left the country for the United States in 1961, he, under the pen name Y Dịch, wrote the poem entitled “Good Bye My Lover” that in 1992 I set to music with the name “It Hasn’t Rained Yet In July.”
There was also a pleasant memory from that time, as a reporter had taken a picture of my sister Dung while she rode her velosolex in Saigon, and that photograph appeared in the October 1961 issue of National Geographic. She did not tell us this, and I only knew about it decades later.
In 1965, she completed her Bachelor of Science degree in Nursing and passed the exam to earn her Registered Nurse certification. Going back to Vietnam, she worked for the Ministry of Health, taught nursing at School of Nursing, and English at the Vietnamese American Association. Although Điểu, her husband, was a high-ranking official in South Vietnam’s Ministry of Mass Mobilization and Open Arms, they were not quite well-to-do, because they also had to support their parents and siblings.
Dung was so kind that she never complained about anyone, including those who presumably were her friends but harmed her loved ones. She only sighed, and I never heard her criticized any other person.
But she was also strong. After the so-called “liberation” of South Vietnam in 1975, she lost her jobs and stayed home. She managed to raise her three children by trading at swap meet and cooking sweet rice. That was her toil while her husband went to “re-education camps.” She showed incredible perseverance in bringing her three small children along on nine attempts to escape the country. The poor mother and children were caught and detained several times, and they never succeeded!
After all those misfortunes came fortune. Her family finally went to France in 1983, after Điểu went back from “re-education camps.” Because Dung’s father-in-law was an officer of the French colonial army, the French government accepted the family’s application for refuge, even after he had passed away.
I sponsored her family as they migrate to America in 1985. Here, Điểu worked as a journalist for a Vietnamese newspaper, a low-paying, time-consuming job which also incurred the risk of being labeled wrongly as “communist.” They basically lived on Dung’s salary as a school nurse. They later managed to buy a house in Bellflower, a city situated between Orange County and Los Angeles. She took care of almost everything, including house chores and rounding up the kids, so her husband could perform the pro bono works.
Điểu suddenly succumbed to sickness and passed away in 1999, and Dung stayed single ever since, including a ten-year span when she lived alone in the old house full of memories. In recent years, some of her children moved back and her grandchildren often visited her, so she was less lonely.
About two and a half years ago, she was told by her doctor about her cancer that needed chemotherapy, radiation therapy and surgery. She went through these treatments smoothly. But in the past six months or so, the cancer came back, and this time there was no effective cure.
Three days ago, her daughter Y Sa informed me of the bad news. Even as I already knew that it was inevitable, I choked up and had to hang up the phone. Today, while thinking and writing these lines, I have realized that my sister was so “beautiful” as a person. I dare to believe that Dung has easily transcended to a high place, where Điểu has been waiting for the past 20 years.
My sister Dung has departed forever!
Phạm Anh Dũng
April 29, 2019
translated by Lê Đình Nhất Lang
Photo 1: Dung in the October 1961 issue of National Geographic
Photo 2: Điểu and Dung (taken by Trần Đại Lộc in an incidental moment in 1966)