Phật-giáo đã đến nước Việt từ hai nghìn năm trước và là một phần trong lịch sử nước Việt. Quyển sách này xin được viết cho những người cùng quan tâm đến lịch sử nước Việt biết thêm về một khía cạnh tín ngưỡng, văn học và mỹ thuật trong đời sống người Việt theo dòng lịch sử.
Thoạt tiên, đạo Phật đã đến với người Việt như một tín ngưỡng, tin tưởng Phật có phép thần thông: Tứ-Pháp (là Pháp-vân, Pháp-vũ, Pháp-lôi, Pháp-điện), để phù trợ nhà nông trong việc cấy cày, làm ruộng, trồng lúa gạo, làm ra thức ăn nuôi sống người dân. Dần dà, đạo Phật đã trở nên một đạo sống, một nhân sinh quan của người Việt trong đời sống hằng ngày:
Tu nhân tích đức
Ăn hiền ở lành
Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác
Dẫu xây chín cấp phù-đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người.
Khuyên ai ăn ở cho lành,
Kiếp này chưa gặp để dành kiếp sau.
Những câu tục ngữ ca dao này biểu hiện cho luật nhân quả trong đạo Phật, nhắc nhở chúng ta rằng những việc làm thiện hay ác ở các kiếp trước và ở đời này là nhân cho các điều tốt hay xấu của kiếp sau.
Những truyện cổ tích Việt như Sự tích con muỗi nói lên cái vòng luân hồi đi từ kiếp này sang kiếp khác tùy theo cách ăn ở trên đời của mình, Cái cân thủy ngân nhắc nhở việc tu nhân tích đức, và nhiều truyện cổ tích khác đã nói lên nhân sinh quan làm lành lánh ác theo đạo lý nhân quả nhà Phật.
Tư tưởng về nghiệp quả, nhân duyên của đạo Phật được Nguyễn Du đem vào tác phẩm nổi tiếng Đoạn-trường tân-thanh (Truyện Kim Vân Kiều). Nàng Kiều trải qua mười lăm năm đoạn trường, trả hết nghiệp của mình mới được tái hợp về với gia đình. Kết thúc truyện, Nguyễn Du viết rằng:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.”
Đạo lý Phật-giáo đã thấm nhuần sâu xa vào trong tâm hồn người Việt, trong mọi lãnh vực văn học, nghệ thuật, triết lý, nhân sinh. Mục đích khiêm nhường của tập sách này là ghi chép lại một số ảnh hưởng của đạo Phật trong xã hội Việt-Nam từ khi du nhập đến giữa thế kỷ thứ 20. Qua lịch sử, mỹ thuật và văn chương, chúng ta sẽ thấy cách dân tộc Việt quan niệm về các “vẻ mầu nhiệm” của đạo Phật. Sự biểu hiện của đạo Phật qua từng giai đoạn lịch sử cho thấy sự áp dụng thực tế của đạo Phật trong xã hội.
Vì giới hạn của tập sách, mong độc giả thông cảm cho tác giả chỉ có thể viết về “lược-sử” chứ không viết đến “lịch-sử” của đạo Phật ở Việt-Nam, chỉ tả sơ lược một số chùa chiền qua các thời đại và ghi lại một phần rất khiêm tốn trong văn thơ cửa thiền.
Về phần kiến trúc của các chùa, quyển Mỹ-thuật Cổ-truyền Việt-Nam của GS. Nguyễn-Khắc-Ngữ (Tủ-Sách Nghiên-Cứu Sử-Địa) đã thu thập rất nhiều dữ kiện. Trong thời gian đầu thập niên 1980, quyển sách này đã được GS. Ngữ cho đóng bằng tay từng cuốn một để bán cho những người thích nghiên cứu sử Việt. Lúc bấy giờ, người tỵ nạn Việt-Nam hãy còn ở rải rác khắp nơi, ai nấy vừa trải qua cơn mộng dữ và những tháng ngày hãi hùng của năm 1975, nhiều người còn đang lênh đênh trên biển Đông, người thì đang sống vất vưởng trong các trại tỵ nạn, cộng đồng Việt-Nam tại hải ngoại chưa thành hình. Hầu hết đều lo âu cho một tương lai bất định. Sách mới phát hành không có mấy người chú ý đến. Mặc dù sách không in bìa cứng hình màu như sách hiện nay, chúng tôi vẫn mua quyển sách Mỹ-thuật Cổ-truyền Việt-Nam lúc ấy để ủng hộ cho tấm lòng nhiệt thành của Giáo-sư đối với môn sử học và mỹ thuật Việt-Nam.
Các tác phẩm tìm hiểu về đất nước của tác giả Huỳnh-Minh đã cho tôi hiểu biết thêm những công nghiệp của tiền nhân trong các tỉnh miền Nam Việt-Nam cả 200 năm trước khi người Pháp đến. Cảm động thay khi tôi đọc lời “Trần Tình” của ông trong cuốn Gia-Định Xưa và Nay, mà cũng là tâm tình của tôi, một người hậu học.
“Từ lâu tôi vẫn theo đuổi với một hoài bão là phụng sự văn hóa dân-tộc. Đóng góp những gì cho quê hương, đó là con đường mà chúng tôi đã vạch.
Mỗi người ai ai cũng có lý tưởng riêng của mình, người thích cái này, người thích cái kia, ai thích cái gì thì làm theo cái nấy, miễn đừng phản bội lại quê hương dân-tộc là đủ.
Sở dĩ chúng tôi thích làm văn hóa, viết sách sưu khảo, tìm hiểu non sông gấm vóc, [là để] ghi lại các sự kiện lịch sử từng địa phương, làm sống lại công nghiệp của tiền nhân có những trang sử oai hùng làm vẻ vang cho dân-tộc.
Đem hết lương tâm để phụng sự với bao năm tháng trên bước đường dài, từ bao lâu nay vẫn âm thầm làm theo lý tưởng của mình, không nhờ sự tài trợ của một cơ quan văn hóa nào cả, chúng tôi cam chịu mọi sự bạc đãi phũ phàng, mà cứ lặng lẽ tiến hành trên đường đã vạch. Bao nhiêu tác phẩm là bấy nhiêu tâm huyết. Bao nhiêu chữ là bấy nhiêu tình. Tâm-huyết nhiệt thành phục vụ văn hóa, Đạo nghĩa, Tình nồng nàn yêu mến quê hương, chủng tộc.”
Gia-Định Xưa và Nay, Huỳnh-Minh
Để tìm hiểu ảnh hưởng của đạo Phật trong xã hội Việt-Nam vào thời vua Lê chúa Trịnh, một trong những quyển sách tôi tra cứu là quyển Tang Thương Ngẫu Lục của hai tác giả Phạm-Đình-Hổ và Nguyễn-Án. Đọc Tang Thương Ngẫu Lục, tôi mới biết là sách này được soạn vào đầu thế kỷ thứ 19, triều Gia-Long (1802-1819), và sách này chỉ được chép tay để truyền bá. Mãi đến năm 1896, triều Thành-Thái năm thứ tám, tiến-sĩ Đỗ-Văn-Tâm tự Gia-Xuyên, đương tại chức tổng-đốc Hải-Dương xem lại rồi quyên tiền khắc gỗ in ra, từ đấy sách được phổ biến rộng rãi hơn trong làng văn.
Tuy nhiên, cũng như các trước tác khác của tiền nhân trong nhiều thế kỷ trước, sách Tang Thương Ngẫu Lục được viết bằng chữ Hán cho nên vào đầu thế kỷ thứ 20, khi nền giáo dục và khoa cử Nho-học bị bãi bỏ thì những sách bằng chữ Hán càng lúc càng ít người đọc được. Thế hệ trí thức thập niên 1930 trở đi hiểu biết tiếng Pháp cũng như hiểu và dùng quốc-ngữ nhiều hơn. Bút sắt đã chiếm chỗ của bút lông. Các nhà Nho-học hay Hán-học chỉ còn là hình bóng mờ của quá khứ như Vũ Đình Liên đã tả trong bài thơ Ông Đồ.
“Ông Đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài trời mưa bụi bay.”
May mắn cho chúng ta, năm 1962, Sở Tu-thư Dịch-thuật của Bộ Quốc-gia Giáo-dục (Việt-Nam Cộng-Hòa), giáo-sư Nghiêm Toản (trưởng-ban Hán-văn Đại-học Văn-khoa), cụ Tú Đỗ Huyến (giáo-sư Hán-văn Trường Sư-phạm Sài-Gòn), và dịch giả Đạm Nguyên đã chú ý đến quyển Tang Thương Ngẫu Lục và cho dịch ra quốc-ngữ “để giúp ích cho mai hậu trong việc khảo cứu về chuyện cũ nước nhà”.
Ngày nay, sách đến tay chúng ta không phải bằng cách chép tay – chỉ được vài bản – hay khắc gỗ a – được độ dăm chục hay trăm bản. Với kỹ thuật tân tiến hiện đại, sách có thể được ấn hành đến cả triệu bản. Nhưng ngày nay biết còn bao người đọc đến quyển Tang Thương Ngẫu Lục cũng như những sách vở khác đã được dịch ra quốc-ngữ trong kho tàng văn học nước nhà?
Tiến-sĩ Đỗ-Văn-Tâm đã trân quý một tác phẩm văn học nước nhà, mua bản sách, đính chính, quyên tiền khắc gỗ in, để cho tác phẩm Tang Thương Ngẫu Lục không bị mai một, công phu của hai tác giả Phạm-Đình-Hổ và Nguyễn-Án không bị uổng phí. Để tỏ tấm lòng biết ơn các vị tiền bối đã bỏ công lao giữ gìn kho tàng văn học nước nhà, tôi muốn theo bước chân của cụ Đỗ-Văn-Tâm, từ sách Tang Thương Ngẫu Lục và những sách vở xưa khác của tiền nhân, mạo muội thu góp những điển tích hay đẹp trong sách vở nước nhà liên quan đến đạo Phật mà viết ra quyển Phật-giáo Việt-Nam.
Trong sách Tang Thương Ngẫu Lục, bản dịch của dịch giả Đạm-Nguyên và cụ Tú Đỗ-Huyến, viết năm 1962 tại Sài-Gòn, có ghi chép rằng:
“Tam-An-Đình, Phụng-Dực, Bằng-Sô kiểm-lại; Ân-tứ Tiến-Sĩ khoa Canh-Thìn, Thự Tổng-Đốc Hải-An, Hậu-học Gia-Xuyên, Đỗ-Văn-Tâm, hiệu Ngọc-Hiên xem lại và khắc in.”
Sách này xin để kính dâng anh hồn cụ Gia-Xuyên Đỗ-Văn-Tâm và những bậc tiền bối hằng thiết tha giữ gìn kho tàng văn học Việt-Nam.
Nói chuyện trên đài Saigon Houston – 27 tháng 10, 2016
Đề tài: Giới thiệu nhạc sĩ PHẠM ANH DŨNG
Quý Linh (QL):
Thưa quý thính giả,
Đây là chương trình Văn Hóa Việt do Trường Truyền Thống Việt phụ trách, đến với quý thính giả của đài Saigon Houston, mỗi tháng một lần. Quý Linh xin kính chào quý thính giả của đài SGH.
Hôm nay, mùa Thu đang trở lại với chúng ta, xin mời quý thính giả thưởng thức nhạc phẩm Tình Khúc Mùa Thu do ca sĩ Ý Lan trình bày và nhạc sĩ Đồng Sơn hòa âm.
* TÌNH KHÚC MÙA THU (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) Ý LAN HÁT, ĐỒNG SƠN HÒA ÂM, HOÀNG KHAI NHAN VIDEO:
*
Thưa quý thính giả, quý vị vừa nghe nhạc phẩm Tình Khúc Mùa Thu, nhạc và lời do nhạc sĩ Phạm Anh Dũng soạn. Thưa quý vị, hôm nay chúng ta sẽ có buổi nói chuyện với nhạc sĩ Phạm Anh Dũng, tác giả của nhạc phẩm mà chúng ta vừa thưởng thức.
Xin mời nhạc sĩ Phạm Anh Dũng lên tiếng chào thính giả của đài SGH.
Xin thân chào bác sĩ nhạc sĩ Phạm Anh Dũng.
Phạm Anh Dũng (PAD):
Trước hết, cho tôi được phép kính chào các quý thính giả của đài phát thanh Saigon Houston, và cũng xin cám ơn chị Quý Linh đã cho hân hạnh được nói chuyện, ngày hôm nay.
QL: Được biết nghề chính của anh là y khoa, nhưng điều gì đã khiến anh say mê âm nhạc? PAD: Thưa chị, rất giản dị, tôi thích nghe nhạc từ những ngày còn nhỏ và do đó chuyện say mê âm nhạc là tự nhiên thôi.
QL: Bản nhạc nào đầu tiên anh thích khi còn nhỏ và có ấn tượng nhất với anh là bản gì? PAD: Các bản nhạc Nhi Đồng, do các anh chị dạy hát khi còn bé, có lẽ là những bản nhạc đầu tiên tôi thích.
Nhưng một bài hát tôi còn nhớ mãi, là bài Trên Đồng Trong Rừng, đại khái đoạn đầu như sau: “Đây gió đây trong rừng- Đây cánh đồng đời bao phóng khoáng- Kìa chim non đang vờn hoa tươi trên cánh líu lo muôn lời…” Cũng phải nói, bài này là dân ca Phần Lan và tôi không rõ ai viết lời Việt.
Khi lớn hơn một chút, có lẽ nhạc phẩm Tình Ca của Phạm Duy, cho tôi ấn tượng mạnh nhất và mãi đến nay, nhiều lần, tôi vẫn say mê nghe các ca sĩ, nhất là Thái Thanh, “Tiếng Hát Vượt Thời Gian”, hát: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời- Người ơi mẹ hiền ru những câu xa vời- À à ơi, tiếng ru muôn đời…”.
QL: Trong gia đình có ai thích âm nhạc như anh không? PAD: Có lẽ tất cả anh chị em tôi đều thích âm nhạc. Tôi cùng với bà chị ruột, ngày xưa hay ngồi đàn hát với nhau. Bà chị ruột của tôi là Phạm Nga biệt hiệu Bích Huyền, sau này ở Hải Ngoại, là người đã thực hiện hàng trăm bài phát thanh thơ nhạc cho các đài như VOA, Radio Bolsa… Trong gia đình, tôi có hai chị gái mà các bạn bè Trưng Vương của hai chị gọi là Phạm Dung và Phạm Nga. Hai chị có lẽ cho ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất.
*
TÌNH KHÚC HỒI HƯƠNG (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) PHẠM ANH DŨNG HÁT, DUY CƯỜNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/bxtpxi89h277kmoh7vpnan2klohz1bu4
*
BÀI THƠ MÙA THU (THƠ BÍCH HUYỀN, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) MAI HƯƠNG HÁT, DUY CƯỜNG HÒA ÂM: http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/bai-tho-mua-thu-mai-huong.mNW2vstUgXiU.html
*
QL: Khi còn nhỏ, anh có dịp nghe nhạc ở đâu? Đài phát thanh, đài truyền hình, máy cassette, đi phòng trà, quán cà phê… PAD: Khi còn nhỏ, thỉnh thoảng tôi được Mẹ dẫn đi xem Đại Nhạc Hội.Về sau, tôi hay nghe nhạc từ radio, nhưng lớn lên nghe qua máy cassette và ở quán cà phê như các thanh thiếu niên cùng lứa ngày đó. Sau đó ở Sài Gòn cũng còn được “nghe/xem nhạc” qua TV (Truyền Hình Việt Nam).
QL: Trong các gia đình Việt Nam ngày xưa, theo như QL biết, cha mẹ thường không muốn con cái học nhạc vì sợ rằng còn trẻ ham mê âm nhạc rồi bỏ bê việc học, các cụ hay nói câu “xướng ca vô loài” để ngăn cấm con cái theo đuổi âm nhạc. QL hồi còn ở trung học, rất thích đi diễn kịch, đi thi vào QGANKN, đỗ rồi, nhưng không dám bỏ học Khoa Học để theo Kịch Nghệ, vì biết rằng cha mẹ mình không muốn mình học môn đó. Không biết gia đình anh nghĩ thế nào về việc theo đuổi âm nhạc của anh và anh có bị gia đình cấm đoán không? PAD: Thưa chị, ngày xưa tôi cũng không có bỏ thì giờ nhiều cho âm nhạc, nên trong gia đình chưa có vấn đề cấm đoán.
Nhưng tôi đoán chừng, nếu định chính thức theo “nghề nhạc”, có lẽ gia đình tôi, chắc cũng như gia đình chị Quý Linh, nghĩa là sẽ không đồng ý.
QL: Khi nghe nhạc, anh có để ý đến giọng ca người hát không? Thí dụ bài Tình Ca của Phạm Duy, anh nhắc ở trên, phải nghe Thái Thanh hát mới hay, còn nhạc Phạm Đình Chương phải nghe ban Tiếng Tơ Đồng trình bày, chẳng hạn… PAD: Thưa chị, tôi đồng ý nhạc Phạm Duy, Thái Thanh hát hay nhất. Có một số nhạc sĩ khác, cũng may mắn được một hay hai ca sĩ nào đó hát nhạc của mình rất hay như vậy. Thí dụ thêm là Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công Sơn, Anh Ngọc và Kim Tước hát nhạc Vũ Thành, Lê Uyên hát nhạc Lê Uyên Phương, Châu Hà hát nhạc Văn Phụng, Hà Thanh hát nhạc Nguyễn Văn Đông…
QL: Anh đã học âm nhạc từ trước khi sáng tác? PAD: Thưa chị, tôi không có điều kiện học nhạc chính thức bao giờ cả. Kiến thức nhạc lý đầu tiên về âm nhạc của tôi từ những giờ học nhạc, tôi nhớ 1 giờ 1 tuần, ở các lớp trung học đệ nhất cấp, tại trường trung học Võ Trường Toản ở Sài Gòn, khoảng thập niên 1960. Sau đó, cũng khi còn học ở trường trung học, nhưng đệ nhị cấp, lúc đó ở Sài Gòn có phong trào “kích động nhạc”. Vài bạn bè chúng tôi để dành gom góp tiền, người thì mua trống, người thì mua đàn guitar điện và thành lập một ban nhạc để vui chơi đàn hát với nhau, và tôi học thêm nhạc từ bạn bè nhờ tập đàn hát. Phải nói, phần lớn tôi học nhạc là do nghe nhạc, suy nghĩ, xem sách nhạc và thực hành (đàn, hát và sáng tác).
QL: Anh có sử dụng những nhạc cụ nào không? PAD: Tôi chỉ có biết đàn guitar, không khá lắm, vì chỉ học lấy theo sách vở, nghe nhạc, thực hành đàn guitar trong ban nhạc như tôi có nói và do bạn bè chỉ dẫn thêm.
Ngoài ra, tôi nhớ ngày xưa, cũng có biết thổi harmonica, tuy cũng không có gì xuất sắc, chỉ cho vui thôi.
Lúc sau này có tự học tập thử dương cầm, khi mua cho các con trong nhà, nhưng không có khiếu, thành bỏ luôn.
QL: Anh đã sáng tác từ lâu, từ năm nào? PAD: Thưa chị, bản nhạc đầu tiên tôi sáng tác là Nắng Xuân Xưa. Bài này do ca sĩ Lệ Thu hát trong CD Đưa Người Về Phương Đông. Tôi không chắc là viết Nắng Xuân Xưa năm nào, nhưng lúc đó ở Việt Nam, trong một năm cuối ở Trung Học hay một năm đầu ở Đại Học, nghĩa là khoảng 1965.
Sau khi tôi viết, có đàn hát cho bạn bè nghe và không có ai “hào hứng”, thành tôi cũng không nghĩ đến chuyện sáng tác nữa. Và bài nhạc duy nhất đó, chính tôi cũng quên mất luôn!
Cho đến năm 1990, khi đã ở Hoa Kỳ lúc bà chị ruột, chị Bích Huyền, như tôi đã nhắc đến ở phần trước, ở Việt Nam sang định cư và chị có đàn dương cầm cho nghe lại, tôi mới nhớ lại bài hát. Và không hiểu sao lúc đó lại có cảm hứng, viết nhạc lại sau độ… 25 năm.
*
NẮNG XUÂN XƯA (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) LỆ THU HÁT, DUY CƯỜNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/a4pz5t8fjzvg2z3ukue4
*
QL: Thường thường, mỗi bản nhạc anh sáng tác cần một thời gian bao lâu mới xong? PAD: Thường thì một hay vài ngày có thể xong bài hát, nhưng cũng có khi rất nhanh, hay rất lâu.
Bài thơ Tay Che Mặt Trời của anh Hà Huyền Chi gửi bằng email, sau ½ giờ tôi đã đặt nhạc xong bài hát và mất độ 1/2 giờ nữa viết ra giấy, xong tôi gọi điện thoại đàn hát cho anh nghe qua điện thoại. Ca sĩ Quỳnh Lan rất thích bài này và đã hát tặng tác giả. Cũng nhân dịp này, cám ơn Quỳnh Lan.
Ngược lại, bài Cánh Hoa Hồng Tiền Kiếp tôi viết được 1-2 câu lại phải ngưng vài ngày hay vài tháng sau đem ra viết thêm 1-2 câu, rồi lại viết đi viết lại, đến hơn 3 năm mới xong.
*
TAY CHE MẶT TRỜI (THƠ HÀ HUYỀN CHI, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUỲNH LAN HÁT: https://app.box.com/s/r7ym0w50uwtm2fgr5bm4
*
QL: Đến nay anh đã sáng tác được bao nhiêu tác phẩm? PAD: Tôi viết được khoảng 350 đến 400 bài tình ca. Phải nói ngay, có lẽ đến hơn một nửa không có điều kiện để thu thanh.
Nhưng, thưa chị, thật ra số lượng không đáng nói. Quan trọng hơn, là nhạc có giá trị hay không. Có những nhạc sĩ chỉ có sáng tác một hay vài bài nhưng đã là tuyệt tác. Điển hình là nhạc sĩ tài hoa Đặng Thế Phong, qua đời năm ông mới 24 tuổi, đã để lại chỉ có 3 nhạc phẩm, nhưng bất diệt: Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến và Giọt Mưa Thu. Nhạc tôi viết, nhiều, nhưng tôi có lẽ chỉ bằng lòng với chính mình, một số nhỏ thôi.
*
THÌ THẦM (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) XUÂN THANH HÁT, DUY CƯỜNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/tvfs0fvebq8lh4nk2p5kotxl8axml1tb
*
NẾU MAI ANH VỀ (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) MỸ LỆ HÁT, QUỐC DŨNG HOÀ ÂM: https://app.box.com/s/mdkgtc0i34xuqlpw487v
*
TÌNH LÀ HƯ KHÔNG (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) HIẾU PHƯƠNG HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/dimzxhcfhata026hmlkl
*
QL: Anh có viết nhạc chung với các nhạc sĩ khác không? Thí dụ như ngày xưa, bài nhạc nổi tiếng Lá Rơi Bên Thềm của 2 nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và Nguyễn Hiền cùng viết với nhau. PAD: Tôi cũng có một bài Mộng Trưng Vương, nhạc phổ thơ Hồng Thủy, sau khi viết được nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 xem lại, khi ông qua Hoa Kỳ ghé thăm chị Hồng Thủy. Nguyễn Ánh 9 viết lại khoảng 1/4 bản nhạc và do đó nên viết là Mộng Trưng Vương (thơ Hồng Thủy, nhạc Phạm Anh Dũng và Nguyễn Ánh 9) cho chính xác.
Một bài khác là Mẹ Với Con Suốt Đời, thơ của Uyển Diễm và nhạc do Uyển Diễm và tôi viết chung.
Thỉnh thoảng cũng có bài được ý kiến của người khác và tôi rất thích. Thí dụ bài Hình Như Là Tình Yêu nhạc sĩ Duy Cường có đổi 1 nốt nhạc ở đoạn cuối ra khỏi hẳn hợp âm chính, bài Mẹ Ru Con ca sĩ Ý Lan có đề nghị viết 2 nốt nhạc cao hơn, còn bài Tháng Bảy Chưa Mưa ca sĩ Tuấn Ngọc hát nốt áp chót ít có láy hơn như tôi viết và hát dễ hơn. Tôi cũng theo ý kiến rất có lý của họ, những người có kinh nghiệm hơn tôi.
*
MỘNG TRƯNG VƯƠNG (THƠ HỒNG THỦY, NHẠC PHẠM ANH DŨNG & NGUYỄN ÁNH 9) DIệU HIỀN HÁT, QUANG NGỌC HÒA ÂM: https://www.youtube.com/watch?v=ouM7p6qRLCc *
MẸ VỚI CON SUỐT ĐỜI (THƠ UYỂN DIỄM, NHẠC UYỂN DIỄM & PHẠM ANH DŨNG) TÂM THƯ HÁT, CAO NGỌC DUNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/9je8a8q12gvq3alnyv3umjsn3y54v3k4
*
QL: Với số lượng sáng tác lớn như vậy, anh thực hiện chắc rất nhiều CD? PAD: Thưa chị, tôi đã có 14 CD. CD đầu tiên là Đưa Người Về Phương Đông phát hành năm 1993. CD thứ 14 là Tình Yêu Lên Ngôi phát hành năm 2011.
Phải nói tôi may mắn là có nhiều CD được nhiều thi sĩ có thơ do tôi phổ nhạc góp phần và có khi đứng ra thực hiện và phát hành. Nếu chỉ một mình, tôi không thể có đủ điều kiện để làm được nhiều CD như vậy.
Tôi có 2 CD ra chung với nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm là Mùa Xuân Thung Lũng Hoa Vàng và Dòng Sông Đứng Lại.
*
CD PHẠM ANH DŨNG:
QL: Anh có định “ra” CD nào nữa không? PAD: Tôi có ý định ấn hành CD Nhạc Quỳnh Phạm Anh Dũng có 17 bài tình ca viết cho hoa quỳnh, khi có… điều kiện.
*
QUỲNH (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) DIỆU HIỀN HÁT, QUANG NGỌC HÒA ÂM, QUÝ DENVER & MAI NGUYEN VIDEO: https://youtu.be/gjMuaGay_h8
*
QL: Nhạc của anh thuộc loại nhạc gì ? QL muốn hỏi là loại nhạc Tiền Chiến hay Phổ Thông …chẳng hạn. PAD: Thưa chị, theo ý tôi, đa số nhạc của tôi có nét nhạc Tiền Chiến. Một số bài có viết kiểu nhạc Jazz như 15 Năm (thơ Phạm Ngọc) hay Blues như bài Nghiêng (thơ Thơ Thơ). Một vài bài viết nhạc có nét nhạc Phổ Thông, như Công Cha Nghĩa Mẹ (thơ Trần Ngọc). Nhạc Phổ Thông rất “ăn khách” và bài Công Cha Nghĩa Mẹ được vài ca sĩ, trong đó có Long Nhật, một ca sĩ rất nổi tiếng ở Việt Nam, trình diễn nhiều lần trong nước và tôi cũng chỉ được biết và xem qua internet.
*
NGHIÊNG (THƠ THƠ THƠ, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUỲNH LAN HÁT, QUANG ĐẠT HÒA ÂM, NGUYỄN THƯỢNG DUY VIDEO: https://www.youtube.com/watch?v=9Z8E2-ohaB8 *
CÔNG CHA NGHĨA MẸ (THƠ TRẦN NGỌC, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) LONG NHẬT HÁT: https://www.youtube.com/watch?v=6SwHa9XSyE8
*
QL: QL nghe nhạc anh thấy nhiều nhạc là Slow và Boston, anh có viết những điệu khác không? PAD: Đúng vậy, tôi viết nhạc đa số là Slow và Boston.
Tôi còn thích viết và có tương đối nhiều nhạc Valse với 2 bài được nhiều người biết là Trẩy Nhánh Sương Mù (thơ Phạm Ngọc) và Mùa Hè Tới.
Ngoài ra, còn vài bài Tango như Thu Đến Rồi Đó Em thơ Sóng Việt Đàm Giang, Quỳnh Thi thơ Vương Ngọc Long…
Rồi vài bài Rhumba như Từ Anh Và Nhớ thơ Thơ Thơ.
Một bài Cha Cha Cha là Nguyệt Ghẹo thơ Sóng Việt Đàm Giang.
*
TRẨY NHÁNH SƯƠNG MÙ (THƠ PHẠM NGỌC, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) MỸ TÂM HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM, HOÀNG KHAI NHAN VIDEO: https://youtu.be/mmb2TmBTeOg
*
MÙA HÈ TỚI (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) THÁI HIỀN HÁT, DUY CƯỜNG HÒA ÂM, NGUYỄN THU HOA VIDEO: https://youtu.be/qRvbqUinTNo *
THU ĐẾN RỒI ĐÓ EM (THƠ SÓNG VIỆT ĐÀM GIANG, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) NGUYÊN THẢO HÁT, QUANG ĐẠT HÒA ÂM: https://soundcloud.com/phamanhdung/thu-n-r-i-em-ph-m-anh-d-ng-s *
QUỲNH THI (THƠ VƯƠNG NGỌC LONG, NHẠC PHẠM ANH DŨNG)HẠNH NGUYÊN HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/73jf462xnjnib408x9a5ywqt2lk45xxx
*
TỪ ANH VÀ NHỚ (THƠ THƠ THƠ, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) BẢO YẾN HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://soundcloud.com/phamanhdung/tu-anh-va-nho-tho-tho-pham-anh-dung-bao-yen *
NGUYỆT GHẸO (THƠ SÓNG VIỆT ĐÀM GIANG, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) HẠNH NGUYÊN HÁT, QUANG ÐẠT HÒA ÂM: https://www.youtube.com/watch?v=GG-bUbU9-1E
*
QL: Điều gì đã gợi cho anh cảm hứng sáng tác? PAD: Tôi sáng tác tình ca, thành tình yêu là cảm hứng sáng tác.
Tình yêu ở đây là tình yêu lứa đôi, tình yêu quê hương và tình yêu dành cho Cha Mẹ.
Tôi thích viết tình ca lồng vào khung cảnh 4 mùa, xuân hạ thu đông và tôi đã sáng tác được 4 nhạc phẩm cho 4 mùa là Tình Khúc Mùa Xuân, Tình Khúc Mùa Hạ, Tình Khúc Mùa Thu và Tình Khúc Mùa Đông. Nhiều bài tình ca về hoa, nhất là hoa Quỳnh, rồi đến hoa Hồng, hoa Đào, hoa Cúc, hoa Lan…
Sau đó tình ca về Nắng như Gọi Nắng và Nắng Mùa thơ Phạm Ngọc, về Mưa như Mưa … Mưa thơ Sóng Việt Đàm Giang, về Gió như Gió Đêm Đông, về Trăng như Nguyệt Ghẹo thơ Sóng Việt Đàm Giang, Chia Nửa Vầng Trăng và Rực Vầng Trăng Khuyết thơ Phạm Ngọc, Hư Ảo Trăng thơ Nguyên Sa, Đêm Nguyệt Cầm thơ Vương Ngọc Long…
Một đề tài tôi cũng hay viết là tình ca của những dòng sông như Dòng Sông Vĩnh Biệt, Dòng Sông Đứng Lại thơ Trần Mộng Tú, Dòng Sông Nỗi Nhớ thơ Phạm Ngọc …
*
TÌNH YÊU LÊN NGÔI (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) XUÂN THANH HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://youtu.be/nR0Vc94PAVY *
XIN NGƯỜI CHÚT QUÊ HƯƠNG (THƠ VƯƠNG NGỌC LONG, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) BẢO YẾN HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://youtu.be/dHD5xwuBuiU *
MẸ VÀNG ÚA (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) QUỲNH LAN HÁT: https://soundcloud.com/phamanhdung/m-v-ng-a *
TÌNH KHÚC MÙA ĐÔNG (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) DIỆU HIỀN HÁT, QUANG NGỌC HÒA ÂM, HOÀNG KHAI NHAN VIDEO: https://youtu.be/ap2X0ggdf_M *
CƠN MƯA ĐẦU VÀ TIẾNG HÁT EM (THƠ PHẠM NGỌC, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUANG MINH HÁT, QUANG ĐẠT HÒA ÂM: https://www.box.com/s/03dbh66t8ehprse5826j *
MƯA …MƯA (THƠ SÓNG VIỆT ĐÀM GIANG, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) MỸ DUNG HÁT, QUANG ĐẠT HÒA ÂM: https://youtu.be/O7g6wzYXIdM
*
NẮNG MÙA (THƠ PHẠM NGỌC, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUỲNH LAN HÁT, QUANG ĐẠT HÒA ÂM: https://www.youtube.com/watch?v=bGNaOa09cJw *
VÀNG THU TA MẤT NHAU (THƠ PHẠM NGỌC, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) HIẾU THUẬN HÁT: https://app.box.com/s/4a9gc9ddad8pxs00fbo8 *
XUÂN MƠ (THƠ VƯƠNG NGỌC LONG, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) THỤY MI HÒA ÂM VÀ HÁT: http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/xuan-mo-thuy-mi.EoEifhjCQ7II.html
*
ĐÓA HOA TÌNH YÊU (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) HOÀNG QUÂN HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/doa-hoa-tinh-yeu-hoang-quan.whMRasEKuUoc.html
*
EM NHƯ NỤ HỒNG (THƠ TRẦN NGỌC, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUANG MINH HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/em-nhu-nu-hong-quang-minh.QLeMKMKilY2C.html
*
HOA ĐÀO NĂM NGOÁI (Ý THƠ THÔI Hộ, VƯƠNG NGỌC LONG PHỎNG DỊCH, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) XUÂN THANH HÁT, GIANG ĐÔNG HÒA ÂM: https://youtu.be/Fkn_hvYvNAs
*
THÁNG MƯỜI HOA CÚC (THƠ TRẦN MỘNG TÚ, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUỲNH DAO HÁT, CAO NGỌC DUNG HÒA ÂM: https://youtu.be/AUOH_Uf1XPo
*
QUỲNH LAN (THƠ PHẠM NGỌC, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUỲNH LAN HÁT, QUANG ĐẠT HÒA ÂM, HOÀNG KHAI NHAN VIDEO: https://youtu.be/CNJVmggioqE
*
HƯ ẢO TRĂNG (THƠ NGUYÊN SA, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) MAI HƯƠNG HÁT, DUY CƯỜNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/4pngyyfy101k4wnfkbyg8p48cgoxw8oe
*
QL: QL có nghe cố ca sĩ Quỳnh Giao hát Nhớ Sài Gòn của anh với giọng ca thật trong sáng. Ngoài Sài Gòn, anh có nhạc nào về các thành phố Việt Nam nữa không? PAD: Tôi có viết về Sài Gòn như Nhớ Sài Gòn và Đừng Trở Lại Sài Gòn (thơ Trần Trung Đạo), về Hà Nội như Hà Nội Phố (thơ Phạm Ngọc) và Hà Nội Mưa Bay (thơ Trần Ngọc), về Huế như Huế Buồn Chi (thơ Hoàng Xuân Sơn) và Huế Tình Xanh Một Thuở (thơ Vương Ngọc Long).
Cũng còn một bài về một thành phố miền Tây là Cần Thơ (thơ Sương Mai).
*
NHỚ SÀI GÒN (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) QUỲNH GIAO HÁT, DUY CƯỜNG HÒA ÂM: http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/nho-sai-gon-quynh-giao.fKJmWmZY9iAt.html
*
ĐỪNG TRỞ LẠI SÀI GÒN (THƠ TRẦN TRUNG ĐẠO, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) LÂM DUNG HÒA ÂM VÀ HÁT: https://laamdung.com/2016/02/28/dung-tro-lai-sai-gon/ *
HÀ NỘI PHỐ (THƠ PHẠM NGỌC, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) HƯƠNG GIANG HÁT, QUANG ĐẠT HÒA ÂM, QÚY DENVER VIDEO: https://youtu.be/my-InQowgbs *
CẦN THƠ (THƠ SƯƠNG MAI, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) LÂM DUNG HÒA ÂM VÀ HÁT: http://laamdung.com/2016/03/30/can-tho/
*
QL: Đề tài nào anh chú ý đến nhiều nhất trong những sáng tác của anh? PAD: Thưa chị, tôi viết nhiều nhạc nhất là những tình ca về hoa Quỳnh . Vì viết nhiều nhạc về hoa Quỳnh, nhà văn Lê Hữu, người viết nhiều bài rất giá trị về âm nhạc Việt Nam, trong bài Đêm Xuân, Nghe Nhạc Quỳnh Phạm Anh Dũng có viết tôi là Nhạc Sĩ Của Hoa Quỳnh. Anh cũng ví các bài nhạc Quỳnh của tôi như là là một bộ “tranh sưu tập” về hoa Quỳnh.
*
ĐÊM XUÂN NGHE NHẠC QUỲNH PHẠM ANH DŨNG (LÊ HỮU): https://phamanhdung.wordpress.com/2014/02/25/dem-xuan-nghe-nhac-quynh-pham-anh-dung *
DẠ KHÚC-BÀI NHẠC QUỲNH CUỐI CÙNG (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) HỒNG TƯỚC HÁT, CHÂU HIỆP HÒA ÂM: https://app.box.com/s/j4l3m86wov1qpjzfxfrw5hygmh7uqdwk
*
QL: Anh viết được bao nhiêu bài nhạc Quỳnh? PAD: Bài nhạc quỳnh đầu tiên là Dạ Quỳnh Hương, thơ Hoàng Ngọc Quỳnh Giao, một nữ bác sĩ Y Khoa trước hành nghề ở Bỉ và nhưng đã qua đời lúc mới 48 tuổi, khoảng vài năm sau khi gửi bài thơ Dạ Quỳnh Hương cho tôi viết nhạc. Tôi chưa gặp Hoàng Ngọc Quỳnh Giao bao giờ.
Như đã nói, tôi viết được 17 bài tình ca về hoa Qùynh. Nhiều bài là thơ của các thi sĩ thân hữu như Phạm Ngọc, Vương Ngọc Long, Trường Đinh…
Bài nhạc quỳnh sau hết, đáng lẽ là bài số 16 Dạ Khúc-Bài Nhạc Quỳnh Cuối Cùng, vì tôi đã quyết định không viết thêm nữa.
Nhưng năm ngoái, 2016, khi nhận được tin nữ thi sĩ Đông Quỳnh, cũng là một bác sĩ bên Bỉ, chết vì bị chồng giết thảm khốc lúc chỉ có 40 tuổi. Cô Phương Mai ở bên Pháp, bạn thân của Đông Quỳnh, có nhắc tôi về một ước vọng của Đông Quỳnh là được tôi phổ nhạc vào một bài thơ, mà trong quá khứ, tôi thử vài lần nhưng vẫn chưa làm được. Lúc nhận được tin buồn, tôi lục lại mấy bài thơ Đông Quỳnh gửi trước đó và trong số này có bài thơ Ngày Hóa Đá. Tôi tìm ngay được ý nhac trong bài thơ. Vì vậy bài nhạc Quỳnh số 17 tức Nụ Quỳnh Rướm Máu-Bài Nhạc Quỳnh Nối Tiếp ra đời. Tôi cũng chưa có được gặp Đông Quỳnh bao giờ.
Nhân dịp này tôi cũng xin cám ơn ca sĩ Ý Lan đã hát tặng bài nhạc này, vì Ý Lan rất xúc động, sau khi nghe biết chuyện buồn của Đông Quỳnh.
*
DẠ QUỲNH HƯƠNG (THƠ HOÀNG NGỌC QUỲNH GIAO, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) BẢO YẾN HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/da-quynh-huong-bao-yen.GXj4P1Wpmp.html *
DẠ KHÚC-BÀI NHẠC QUỲNH CUỐI CÙNG (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) HIẾU TÂM HÁT, VIDEO VINH NGUYỄN: https://youtu.be/RtfCQgHvtrY
*
NỤ QUỲNH RƯỚM MÁU-BÀI NHẠC QUỲNH TIẾP NỐI (THƠ ĐÔNG QUỲNH, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) Ý LAN HÁT, ĐỒNG SƠN HÒA ÂM: https://app.box.com/s/omlezzlhb91pdfzlx7xuxuxikunr21d4
*
QL: Nhạc sĩ có khuynh hướng phổ nhạc từ thơ. Anh đã chọn phổ nhạc của các thi sĩ nào? PAD: Đa số các bài thơ phổ nhạc của tôi là do các thi sĩ thân hữu, về thi ca chưa có nổi tiếng nhiều (nhưng có thể đã có danh tiếng về phương diện khác). Đó là các thi sĩ như Phạm Ngọc, Trần Ngọc, Vương Ngọc Long, Lâm Thùy Giang, Tạ Tỵ, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, Huỳnh Nguyễn Thanh Tâm, Thái Thụy Vy, Mùi Quý Bồng… Hoàng Ngọc Quỳnh Giao, Đông Quỳnh, Sóng Việt Đàm Giang, Mỹ Ngọc, Hoàng Lan Chi, Miên Du Đà Lạt, Trịnh Thanh Thủy, Bích Huyền…
Có thi sĩ thân hữu cũng đã khá nổi tiếng trong thi đàn như Du Tử Lê, Hà Huyền Chi, Hoàng Xuân Sơn, Trần Mộng Tú, Hồng Khắc Kim Mai…
Và cũng có, nhưng ít hơn, là thơ của những thi sĩ không quen, nhưng rất nổi tiếng như bài Vườn Xưa thơ của Tế Hanh, bài Gửi Người Dưới Mộ thơ của Đinh Hùng, bài Hư Ảo Trăng thơ của Nguyên Sa… Có một thi sĩ hoàn toàn hầu như không ai biết đến là B.H., với những bài thơ tôi đã viết nhạc như Thời Mộng Du, Như Đất Trời Tình Nhân…
* VƯỜN XƯA (THƠ TẾ HANH, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) HOÀNG QUÂN VÀ QUỲNH LAN HÁT: https://soundcloud.com/phamanhdung/v-n-x-a
*
THỜI MỘNG DU (THƠ B.H.) NGỌC QUY HÁT, QUANG ĐẠT HÒA ÂM: https://soundcloud.com/phamanhdung/thoi-mong-du-pham-anh-dung-bhngoc-quy
*
TÌNH BỖNG KHÓI SƯƠNG (THƠ PHẠM NGỌC, NHẠC PHẠM ANH DŨNG, VƯƠNG ĐỨC HẬU VÀ BAN NGÀN THÔNG HÁT, THANH LÂM HÒA ÂM: https://app.box.com/s/wlmf1snq2ouv0adu6zo1
*
RỒI MAI ĐÂY (THƠ TẠ TỴ, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) HOÀNG QUÂN HÁT: https://soundcloud.com/phamanhdung/roi-mai-day
*
XIN GIỮ LẠI TRÁI TIM NGƯỜI (THƠ VƯƠNG NGỌC LONG, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) XUÂN THANH HÁT, HUỲNH NHẬT TÂN HÒA ÂM, ) XUÂN THANH VIDEO: https://youtu.be/6YYvnguzc1Y
*
EM VỀ (THƠ MÙI QUÝ BỒNG, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) ĐAN KIM TÂM VÀ NGUYÊN BÍCH HÁT, NGUYÊN BÍCH HÒA ÂM: https://youtu.be/kUsekuDU99c
*
VẪN LÀ TÔI (THƠ HUỲNH NGUYỄN THANH TÂM, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) BẢO YẾN HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM, , VIDEO VINH NGUYỄN: https://www.youtube.com/watch?v=bWfoJWzxI24 *
MẶT TRỜI ĐEN (THƠ HÀ HUYỀN CHI, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUANG MINH HÁT, TỐNG PHƯỚC CƯỜNG VIDEO: https://www.youtube.com/watch?v=FACuklWraAc *
LÀ KHI EM VỀ (THƠ MIÊN DU ĐÀ LẠT) HOÀNG QUÂN HÁT: https://app.box.com/s/4a323c8a0e35faa7281e *
TÓC THỀ ĐI ĐÂU MÀ VỘI (THƠ HOÀNG LAN CHI, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) PHI NGUYỄN HÁT: https://youtu.be/ouIXmJwmsVM
*
NƯỚC CHẢY QUA CẦU (THƠ HOÀNG NGỌC QUỲNH GIAO, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) BẢO YẾN HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/b96zcho8ze9pdaa8ur1u2jtiwl86ll70 *
VỀ TỪ VÔ VỌNG (THƠ DU TỬ LÊ, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) XUÂN THANH HÁT, HUỲNH NHẬT TÂN HÒA ÂM: https://www.youtube.com/watch?v=QCurFbw2SZk *
NIỀM ĐAU GAI NHỌN (THƠ THÁI THỤY VY, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUỲNH LAN HÁT, QUANG ĐẠT HÒA ÂM: https://app.box.com/s/ymmxnbxjox1b183qgmyb1f2pe1qzlwl9
*
QL: QL có nghe có người nói “thơ phổ nhạc” và người khác lại nói “nhạc phổ thơ”. Theo anh, hai cụm từ có khác gì nhau? PAD: Thưa chị, “thơ phổ nhạc” là “thơ được phổ nhạc” và “nhạc phổ thơ” là “nhạc phổ vào thơ”. Nhiều người cho là khác nhau nhưng theo tôi “thơ phổ nhạc” hay “nhạc phổ thơ” cũng vậy thôi . Khi nói tắt thì “nhạc phổ thơ” có vẻ đúng hơn “thơ phổ nhạc”, nhưng “thơ phổ nhạc” thì được dùng nhiều hơn là “nhạc phổ thơ”.
*
PHÍA CHIỀU (THƠ TRỊNH THANH THUỶ, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) PHẠM ANH DŨNG ÐÀN HÁT, TỐNG PHƯỚC CƯỜNG VIDEO: https://app.box.com/s/664nkm6hdxlnf6eeutt5h17gg0xstybw
*
QL:Mỗi bài nhạc cũng có thể nói thường là một bài thơ . Theo kinh nghiệm anh, sáng tác lời (làm thơ) và đặt dòng nhạc (phổ thơ), điều gì khó hơn? PAD: Viết nhạc và lời lấy hay viết nhạc vào thơ người khác đều có khó hay dễ khác nhau.
Mỗi bài thơ tiếng Việt, đều có “tiếng nhạc” của nó và khi đọc thường nhạc sĩ “nhìn” thấy ngay “tiếng nhạc”. Hơn nữa, mỗi bài thơ lại có sẵn ý tưởng, thành nhạc sĩ thường không phải nghĩ và viết thêm, hay chỉ cần nghĩ và viết thêm ít thôi . Nếu phổ nhạc vào thơ của nhiều thi sĩ, thì thường nhạc lại có nhiều “màu sắc” khác nhau . Thành tôi thấy nhạc phổ thơ có phần nhanh hơn. Nhưng dĩ nhiên, có hay hay không, lại là chuyện khác.
Còn nếu viết cả lời và nhạc nghe dễ “thoát”, nghĩa là tự nhiên hơn, nhưng phải có khả năng viết lời cho hay bài nhạc mới có giá trị.
Phải nói thêm, ngoài những bài nhạc viết cả nhạc lẫn lời và nhạc viết vào thơ còn một kiểu viết nhạc xong để người khác viết lời .Và tôi có 3 bản nhạc với nhạc của tôi và lời của chị Vĩnh Phúc. Đó là Hoài Mong, Người Con Gái Mang Tên Một Loài Hoa và Thơ Ấu Qua Rồi. Cũng nhắc lại chuyện nhiều người còn nhớ, Vĩnh Phúc là người viết lời cho bản nhạc luân vũ nổi tiếng Ngàn Thu Áo Tím, và 18 bản nhạc khác của nhạc sĩ Hoàng Trọng. Chị cũng đã viết lời cho hàng trăm bài Thánh Ca.
*
HOÀI MONG (NHẠC PHẠM ANH DŨNG, LỜI VĨNH PHÚC) ẨN LAN HÁT: https://app.box.com/s/3k3009q6pkundz42zv9cis6sru6ii7m8
*
NGƯỜI YÊU DẤU MANG TÊN MộT LOÀI HOA (NHẠC PHẠM ANH DŨNG, LỜI VĨNH PHÚC) HOÀNG QUÂN HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/yswx5s1o7c7wxbej735tc1fd4s2v63ny
*
THƠ ẤU QUA RỒI (NHẠC PHẠM ANH DŨNG, LỜI VĨNH PHÚC) DIỆU HIỀN HÁT, QUANG NGỌC HÒA ÂM: https://app.box.com/s/cfb8omo47ancb4z0z1fe68ajmleulbd4
*
QL: Khi anh phổ nhạc vào thơ, anh giữ nguyên tác bài thơ hay thay đổi nội dung? PAD: Thưa chị, có nhiều cách để phổ nhạc vào thơ và tùy theo nhiều yếu tố khi viết nhạc. Tôi không nhớ hết nhưng cho vài thí dụ như sau:
Nhiều khi tôi giữ nguyên tác như một bài thơ dài Vườn Xưa của Tế Hanh hay Gửi Người Dưới Mộ của Đinh Hùng.
Có lúc tôi bớt một hai đoạn cho gọn kiến trúc bản nhạc như Tháng Mười Hoa Cúc và Dòng Sông Ðứng Lại của Trần Mộng Tú.
Có khi đặt thêm thơ như Dạ Quỳnh Hương thơ Hoàng Ngọc Quỳnh Giao, hay Đá Vàng thơ Hồng Khắc Kim Mai.
Có khi tôi chỉ đổi vài chữ cho hợp dòng nhạc như Tay Che Mặt Trời thơ Hà Huyên Chi hay Về Từ Vô Vọng của Du Tử Lê.
*
DÒNG SÔNG ĐỨNG LẠI (THƠ TRẦN MỘNG TÚ, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUỲNH LAN HÁT, HOÀNG MINH HÒA ÂM VÀ GUITAR: https://app.box.com/s/ehr6o7baqeofum619a4j5ts2sqbzhm5b
*
QL: Thường các nhạc sĩ phổ nhạc vào thơ hay chọn thơ có khuôn khổ rõ ràng như thơ 5 chữ, 7 chữ, lục bát vì tương đối dễ có vần có điệu. Thơ tư do thì ít người viết. Anh có phổ nhạc vào thơ tự do không? PAD: Chị nhận xét đúng, phổ thơ tự do khó hơn và tôi viết và nhớ được vài bài như Tháng Bảy Chưa Mưa (thơ Y Dịch), Dạ Quỳnh Hương (thơ Hoàng Ngọc Quỳnh Giao), Paris (thơ Nguyên Sa), Gửi Người Dưới Mộ (thơ Đinh Hùng), Như Đất Trời Tình Nhân (thơ B.H.), Dòng Sông Nỗi Nhớ (thơ Phạm Ngọc), Mơ Qua (thơ Chánh Thành), Nghiêng (thơ Thơ Thơ), Phía Chiều (thơ Trịnh Thanh Thủy), Đá Vàng (thơ Hồng Khắc Kim Mai), Dậy Thì (thơ Hồng Khắc Kim Mai)…
*
THÁNG BẢY CHƯA MƯA (THƠ Y DỊCH, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) TUẤN NGỌC HÁT, DUY CƯỜNG HÒA ÂM: http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/thang-bay-chua-mua-tuan-ngoc.evxKhoYWYnVB.html *
NHƯ ĐẤT TRỜI TÌNH NHÂN (THƠ B.H., NHẠC PHẠM ANH DŨNG) XUÂN THANH HÁT: https://www.youtube.com/watch?v=vsq3zH85Dk8 *
GỬI NGƯỜI DƯỚI MỘ (THƠ ĐINH HÙNG, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUANG MINH HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/xc6cvl53x4ur18s11g526p8l80ao7a7b
*
ĐÁ VÀNG (THƠ HỒNG KHẮC KIM MAI, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) QUANG MINH HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/dgrxze6qizw9ir4n9nipn2rv1931ih0t *
DẬY THÌ (THƠ HỒNG KHẮC KIM MAI, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) HẠNH NGUYÊN HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/88afjs2pcoi6xm7a82i18cjkf74e2he4
*
QL: Anh có dùng ca dao hay nói cách khác các điệu hát truyền thống có ảnh hưởng trong các nhạc phẩm của anh không? PAD: Đa số nhạc của tôi không có viết theo ngũ cung mà là thất cung. Chỉ có vài bài tôi viết có ảnh hưởng dân ca.
Thí dụ bài Mẹ Ru Con có mở đầu bằng một câu ru con của dân ca Bắc, bài Quên (thơ Vương Ngọc Long) có chút ảnh hưởng Quan Họ Bắc Ninh.
Rồi bài Huế Buồn Chi (thơ Hoàng Xuân Sơn), Bài Thơ Tôn Nữ (thơ Phạm Ngọc) và Huế Tình Xanh Một Thuở (thơ Vương Ngọc Long) viết theo dân ca Trung.
Còn bài có chút thấp thoáng dân ca Nam Bộ là Mẹ Quê Mùa (thơ Nghiêu Minh).
*
MẸ RU CON (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) Ý LAN HÁT, ĐỒNG SƠN HÒA ÂM: https://soundcloud.com/phamanhdung/m-ru-con-ph-m-anh-d-ng-lan *
QUÊN(THƠ VƯƠNG NGỌC LONG, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) BẢO YẾN HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/m7c1nm9xtv8kgotmgoa4
*
HUẾ BUỒN CHI (THƠ HOÀNG XUÂN SƠN, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) VÂN KHÁNH HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://youtu.be/JniZs79KdjM *
MẸ QUÊ MÙA (THƠ NGHIÊU MINH, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) THÚY HIỀN HÁT (THI NHẠC GIAO DUYÊN): https://app.box.com/s/6zuhk96o9fh8gq38za03htdcd71rhpuj
QL:Anh Dũng cho biết những khó khăn, nếu có, của người sáng tác nhạc Việt, nhất là nhạc sĩ ở Hải Ngoại? PAD: Thưa chị, theo tôi sáng tác nhạc được nhạc có giá trị là chuyện khó khăn rồi và tôi xin nói thêm những khó khăn sau khi sáng tác.
Sau khi viết xong một bài nhạc phải nghĩ đến chuyện thu thanh, vì bài nhạc viết xong bỏ vào ngăn kéo hay đăng lên báo hoặc in vào sách nhạc, cũng coi như không làm gì được cả. Thu thanh lại mất thì giờ và tốn kém vì cần ca sĩ, người hòa âm và phòng thu thanh. Sau khi thu thanh lại cần in nhạc vào CD, làm mastering CD, in bìa…
Sau cùng chuyện khó nhất là phổ biến. Những người như tôi, in CD rồi cũng chỉ phát hành được quanh quẩn trong giới thân hữu mà thôi.
Việc phổ biến nhạc càng khó hơn vì ở Hải Ngoại, dân Việt ở lẻ tẻ, rải rác khắp nơi trên thế giới.
Riêng cá nhân tôi vì nghề Y Khoa, ở vùng đồng quê, hẻo lánh, xa những tỉnh có đông người Việt Nam, việc phổ biến nhạc của mình càng khó hơn nhiều.
Và các trung tâm nhạc có tiếng, vì lý do thương mại, vì thị trường âm nhạc khó khăn, cũng không có mấy khi giúp các nhạc sĩ chưa có tên tuổi.
Chỉ tiếc nhiều tác phẩm mới có giá trị, sẽ bị mất mát theo thời gian, vì không có người trình diễn và không có dịp có người nghe đến.
Vấn đề này cũng là điểm trở ngại của đại đa số các người ở hải ngoại làm văn hóa nghệ thuật cho các bộ môn khác như văn, thơ, họa…
QL: Anh nghĩ thính giả nên làm gì để có thể giúp những người viết nhạc và không có nhiều phương tiện phổ biến như anh? PAD: Thưa chị, tôi mong vì tấm lòng yêu nghê thuật thính giả nếu có thể, nên ủng hộ các tác giả và tác phẩm mới. Thí dụ tham dự những buổi trình diễn, mua các tác phẩm được ấn hành cho mình và làm quà bạn bè . Mua một CD chẳng hạn, vài đồng có vẻ chẳng đáng kể gì nhưng quan trọng hơn là gửi gấm sự ủng hộ của thính giả để khuyến khích các tác giả và tác phẩm mới.
Hiện giờ internet rất thịnh hành và do đó nên tìm nghe tác phẩm của những nhạc sĩ qua www.google.com . Chỉ cần đánh máy, thí dụ tìm nhạc của tôi, “Phạm Anh Dũng” xong ENTER chẳng hạn. Và rồi gửi “links” cho bạn bè cùng nghe.
Dễ dàng để nghe nhất là vào www.youtube.com và đánh máy “Phạm Anh Dũng” vào chỗ SEARCH rồi ENTER. Và rồi gửi “links” cho bạn bè cùng nghe.
Nếu gặp ở Facebook, thấy hay, thì nên “SHARE” để cho bạn bè cùng nghe.
Quỷ thính giả nào thấy có thể, đàn hát cho bạn bè cùng nghe. Tôi may mắn có nhiều bạn bè văn nghệ đàn hát dùm nhiều bài và có khi rất hay.
Theo ý tôi, tất cả các bộ môn văn hóa nghệ thuật như nhạc, thơ, họa, văn, nhiếp ảnh, điện ảnh… đều cần sự ủng hộ của khán thính giả. Nếu không các tác phẩm có giá trị sẽ mất mát đi thôi.
*
THÁNG BẢY CHƯA MƯA (THƠ Y DỊCH, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) THANH TRANG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/93qhv1oam41rmnp2za92kmc40byd1938
*
TÌNH LÀ HƯ KHÔNG (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) NHẠC HOÀ TẤU THANH TRANG HÒA ÂM: https://app.box.com/s/9efttlhlcbir76qfx0dbbv4sa6pgi3ni
*
DẠ QUỲNH HƯƠNG (THƠ HOÀNG NGỌC QUỲNH GIAO, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) NHẠC HÒA TẤU, LÊ KHẮC BÌNH HÒA ÂM: https://app.box.com/s/5gvfrd29qms84vp98ithnb6ean7sgt0t
*
TÌNH LÀ HƯ KHÔNG (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) JULIA THỦY HÁT: https://app.box.com/s/r4mrz2auryuh5rhekzzxuy2qzasbv5a0
*
TÌNH YÊU LÊN NGÔI (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) MINH NGỌC HÁT, THANH LÂM HÒA ÂM: https://app.box.com/s/iunjgurjmq16cxzzpvuf5175t6uzv169
*
TÌNH LÀ HƯ KHÔNG(NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) THÚY AN HÁT, HỮU THẠNH HÁT: https://app.box.com/shared/veddqpf3i2
*
DẠ QUỲNH HƯƠNG (THƠ HOÀNG NGỌC QUỲNH GIAO, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) THỆ ANH HÁT, TÙNG CHÂU HÒA ÂM: https://app.box.com/s/pjumk4t17wvz90lnu427
*
RỒI EM ÐÃ XA TÔI (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) ÐÈO VĂN SÁCH HÁT, HOÀNG CUNG FA HÒA ÂM: https://app.box.com/s/he3a9dnma13eqe35l2txr8omdj2bbyak
*
NHỚ SÀI GÒN (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) VŨ AN THANH HÁT, ÐINH ÐỨC THẢO LINH HÒA ÂM: https://app.box.com/s/gnkp896ge6xpdskql6l91k7kk7ao2opy
*
QL: Anh Dũng có web site riêng cho nhạc Phạm Anh Dũng không? PAD: Tôi có thực hiện được trang nhà tại: https://phamanhdung.wordpress.com/
QL: Có nhạc phẩm nào mà anh tâm đắc nhất? Xin anh cho biết lý do. PAD: Xin cho phép có hơn một bài tâm đắc. Và khó nói lý do, vì mỗi bài nhạc đều có cái tình cảm khác nhau.
Tôi nghĩ bài nhạc phổ thơ được nhiều người thích nhất là Dạ Quỳnh Hương, thơ Hoàng Ngọc Quỳnh Giao đã nói ở phần trước. Bài này được ca sĩ Trần Thái Hòa hát tặng cho tôi cũng lâu rồi và cho vào CD Đêm Đông do Trung Tâm Thúy Nga phát hành. Nhân dịp này cũng được dịp cám ơn Trần Thái Hòa và Trung Tâm Thúy Nga.
Một bài thơ phổ nhạc khác cũng được bạn bè khen là Tình Bỗng Khói Sương (thơ Phạm Ngọc) đã được ca sĩ Bảo Yến hát trên Truyên Hình Việt Nam lâu rồi. Xin được cám ơn ca sĩ Bảo Yến. Bản thân tôi, tôi cũng thích bài Thì Thầm, bài hát tôi viết cả nhạc lẫn lời.
Bài khác tôi viết cả lời và nhạc, cũng được bạn bè thích là Tình Là Hư Không, tuy là một tình ca mùa thu, nhưng có chút triết lý “sắc sắc không không” của đạo Phật.
Một bài có thời được các đài phát thanh ở Nam California phát mỗi mùa Thu là Gọi Mùa Thu Mơ . Anh Phạm Long, ngày còn thực hiện mục âm nhạc mỗi tuần cho đài Little Saigon Radio đã dùng làm nhạc mở đầu cho chương trình trong thời gian dài. Cũng nhạc phẩm này, tôi có nghe ca sĩ Duy Trác, hồi anh mới qua Hoa Kỳ, kể chuyện đài truyền hình ở Houston, Texas lúc đó có thu hình khi anh hát và cho phát hình nhiều lần.
Một bài hát vui của tôi, bạn bè hay hát là Yêu Em và Yêu Em cũng là bài tôi viết được bạn bè hát trong các dịp đám cưới.
Trong ba bài nhạc tôi viết do Vĩnh Phúc viết lời, nhiều người thấy Hoài Mong, một bài nhạc quỳnh, là hay hơn hết.
*
DẠ QUỲNH HƯƠNG (THƠ HOÀNG NGỌC QUỲNH GIAO, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) TRẦN THÁI HÒA HÁT, TÙNG CHÂU HÒA ÂM: https://youtu.be/eRegZUrc_00 *
GỌI MÙA THU MƠ (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) DUY TRÁC HÁT, DUY CƯỜNG HÒA ÂM, HOÀNG KHAI NHAN VIDEO: https://youtu.be/hIg72xZepZM *
TÌNH BỖNG KHÓI SƯƠNG (THƠ PHẠM NGỌC, NHẠC PHẠM ANH DŨNG) BẢO YẾN HÁT, QUỐC DŨNG HÒA ÂM: https://youtu.be/X4Be2pD0l3c *
TÌNH LÀ HƯ KHÔNG (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) HIẾU TRANG HÁT, NGUYỄN ANH HUY HÒA ÂM, KHÁNH TRÂN VIDEO: http://youtu.be/vCxUS77Qf90
*
YÊU EM VÀ YÊU EM (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) MINH NGỌC VÀ VƯƠNG ĐỨC HẬU HÁT, THANH LÂM HÒA ÂM, HOÀNG KHAI NHAN VIDEO: https://app.box.com/s/kaa9bms6p37hpkf6zy57
*
QL: QL nhận thấy ở Hải Ngoại, hình như có khá nhiều người viết nhạc như anh, ở trong các ngành “áo trắng” săn sóc sức khỏe cho mọi người, nghĩa là Y Nha và Dược. Anh có thể kể tên các người sáng tác nhạc trong 3 ngành này.
PAD: Tôi nhớ ngay, cũng có thể quên một vài người, tất cả là bạn bè, đều ở Hoa Kỳ, như sau:
Ngành Y có các y sĩ Phạm Gia Cổn tức Mạc Vũ, Nguyễn Văn Bích tức Nguyên Bích, Trần Văn Khang tức Khanh Phương, Hồ Ngọc Minh tức Vũ Thư Nguyên, Văn Sơn Trường, Nguyễn Đình Phùng, Lê Khắc Bình, Đào Duy Anh, Phạm Anh Dũng…
Ngành Dược nhớ có các dược sĩ Mã Gia Minh tức Mai Châu, Lê Văn Thành, Lâm Kim Cương…
Ngành Nha tôi nhớ được các nha sĩ Nguyễn Nhật Thăng tức Đăng Khánh, Cao Minh Hưng…
QL: nhạc Việt Nam thỉnh thoảng có bài có lời Ngoại Quốc. Thí dụ Giọt Mưa Trên Lá (Phạm Duy) có lời tiếng Anh, Không(Nguyễn Ánh 9) có lời tiếng Trung Hoa, Nắng Chiều (Lê Trọng Nguyễn) có lời Anh, Nhật và Trung Hoa… Anh có bản nào có lời ngoại quốc không?
PAD: Tôi có được 2-3 bản do chị Vũ Phương Lan, giáo sư Pháp Văn, dịch lời sang Pháp Văn và tôi còn nhớ được một một bài được hát là Tình Khúc Mùa Đông.
*
MELODY INACHEVÉE /TÌNH KHÚC MÙA ĐÔNG(PHẠM ANH DŨNG, LỜI PHÁP VŨ PHƯƠNG LAN) HIẾU TRANG HÁT, NGUYỄN ANH HUY HÒA ÂM: https://app.box.com/s/kkdcs3lsso5v766473rh2l9bzqj0rgvv
*
QL: Xin anh chọn một bản nhạc để mời khán giả thưởng thức trước khi chấm dứt chương trình Văn Hóa Việt. Xin cám ơn Bác sĩ-Nhạc sĩ Phạm Anh Dũng đã dành thì giờ quý báu đến với chương trình Văn Hóa Việt hôm nay. PAD: Để kết thúc buổi nói chuyện, và kính chào tạm biệt các thính giả và chị Quý Linh, xin mời cùng nghe nhạc phẩm Thì Thầm (nhạc và lời Phạm Anh Dũng) do Tuấn Ngọc hát, Duy Cường hòa âm, trích từ CD Tình Yêu Lên Ngôi-17 Tình Khúc Phạm Anh Dũng. *
THÌ THẦM (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) TUẤN NGỌC HÁT, DUY CƯỜNG HÒA ÂM, HOÀNG KHAI NHAN VIDEO:
*
QL: Xin kính chào quý thính giả.
*
DẠ QUỲNH HƯƠNG (TRANH NGUYỄN SƠN)
*
THẬT HAY MƠ (NHẠC VÀ LỜI PHẠM ANH DŨNG) BẢO YẾN HÁT, QUỐC DŨNG HOÀ ÂM, ÐẠO DIỄN QUÝ TIẾT:
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA TRONG LỜI THÁNH CA CỦA VĨNH PHÚC
Nhiều người thuộc thế hệ thanh niên tại miền Nam Việt Nam vào thập niên 1960 biết bài tình ca “Ngàn Thu Áo Tím” do Hoàng Trọng viết nhạc và Vĩnh Phúc viết lời. Những ai đã từng ở trong ban hát của các Hội Thánh Tin Lành tại Việt Nam trong những thập niên vừa qua, chắc hẳn ít nhất một lần đọc thấy tên Vĩnh Phúc trong các bài Thánh Ca Việt ngữ. Tuy nhiên, khác với những cuộc tình ly biệt đầy nước mắt trong những bài tình ca mà Vĩnh Phúc đã viết; trong Thánh Ca của Vĩnh Phúc người nghe cảm nhận được tình yêu diệu kỳ của Thiên Chúa qua hơn 350 Thánh Ca – chưa kể đến rất nhiều bài hát cho thiếu nhi – mà cô đã viết.
Vĩnh Phúc tên thật là Lưu Thị Vĩnh Phúc. Vĩnh Phúc lớn lên trong gia đình tin kính Chúa nên những lời Thánh Ca do cô viết chan chứa tình yêu của Thiên Chúa. Người nghe dường như được nhắc lại những phân đoạn Kinh Thánh mặc dù trong ca từ không thấy những dòng chữ đó. Điển hình như trong bài Bước Với Chúa Yêu Thương, khi hát phần điệp khúc: “Được đi với Cha khi mộng trần gian khuất xa….” người nghe liên tưởng đến hai môn đồ trên làng Emmaus năm xưa. Hay trong bài Thánh Ca đầu tiên của Vĩnh Phúc – Tình Yêu Thiên Chúa – phiên khúc đầu tiên gợi nhớ về đêm Chúa giáng sinh; và sau đó sự hy sinh của Chúa trên thập tự được nhắc đến trong phần cuối của phiên khúc thứ hai. Trong tất cả những bài Thánh Ca do Vĩnh Phúc sáng tác, người nghe có thể cảm nhận tình yêu vô biên của Chúa và niềm an ủi bất tận của Ngài.
Nhưng có lẽ bài Chúa Quá Yêu Tôi là một thí dụ tiêu biểu thể hiện tài năng viết lời rất đặc biệt của Vĩnh Phúc. Bài này trong nguyên tác tiếng Anh không phải là một bài Thánh Ca; tuy nhiên dưới ngòi bút của Vĩnh Phúc, lời Việt của bài gần sát với nguyên bản tiếng Anh You Needed Me nhưng lại rất Cơ Đốc. Người nghe cảm nhận được sự chăm sóc an ủi của Chúa ngay trong những dòng chữ đầu tiên “Lệ tràn khoé mắt, được Ngài thấm khô…” liên tưởng đến cảnh Chúa trò chuyện với Phi-e-rơ sau khi Ngài sống lại. Lời bài hát dường như cũng nhắc lại cho người nghe những lần Chúa nói với chính mình sau khi đã lỡ bước sa chân lìa xa Chúa.
Trong cuộc họp mặt nữ sinh Trưng Vương tại Houston vào năm 1991, Vĩnh Phúc đã giải thích lý do cô chuyển viết lời từ tình ca sang Thánh Ca như sau: “Mặc dầu tình ca hay và đẹp nhưng luôn chứa đựng những câu chuyện buồn. Những chuyện tình buồn không lối thoát. Nhưng khi viết Thánh Ca, tôi thấy lòng nhẹ nhàng thanh thoát vì được giãi bày tâm sự của mình với Thiên Chúa.”
Tâm tình này có thể đọc thấy trong nhiều ca khúc của Vĩnh Phúc, nhất là các ca khúc viết cho thiếu nhi như trong bài Bầu Trời Xanh: “Bầu trời xanh xanh, trùng dương mông mênh, màn sương óng ánh, cây rừng xanh xanh, ngàn sao lấp lánh, áng mây bồng bềnh. Ôi cõi đời đẹp xinh!” Niềm vui thanh thoát nhẹ nhàng, lan tỏa trong từng câu hát.
Người viết xin chia xẻ vài chi tiết về Vĩnh Phúc qua bài phỏng vấn bằng email.
Thủy Như: Xin cô cho biết về thân thế và gia đình. Con nghe nói họ hàng nhà cô là người miền Trung nhưng cô nói giọng rất Bắc.
Vĩnh Phúc: Cô là thứ nữ của hai cụ cố Mục sư Lưu Văn Mão. Ba Mẹ cô đều là người Miền Trung và nói giọng Miền Trung. Sau khi tốt nghiệp Trường Thần Học, các cụ hầu việc Chúa ở Huế (Miền Trung) một thời-gian rồi được gửi ra Miền Bắc phục vụ Chúa. Cô được sinh ra, lớn lên, và đi học tại Miền Bắc nên nói giọng Bắc rất đúng, không bị “lai” chút nào.
Thủy Như: Lời Thánh Ca mà cô sáng tác đầu tiên là bài nào và trong hoàn cảnh nào?
Vĩnh Phúc: Lời bài Thánh Ca đầu tiên mà cô viết là “Tình Yêu Thiên Chúa”, dường như nhạc sĩ Nguyễn Văn Thanh giao cho cô viết vào dịp Lễ Giáng-Sinh năm 1969 thì phải! Mặc dù hoàn cảnh vui buồn thường là cảm hứng cho những sáng tác của hầu hết các tác giả, nhưng hình như cô không dựa vào “hoàn cảnh” để viết, nhất là viết Thánh Ca. Thánh Ca là những bài người trần gian hát lên tôn vinh Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa muôn loài. Thiên nhiên ca ngợi Ngài liên tục suốt đêm ngày, tháng, năm, thế-kỷ: Mưa rơi tí tách, gió thổi vi vu, cây rung lá xào xạc, sóng vỗ, thác đổ, suối reo… không có dấu hiệu nào gợi cho ta thấy “hoàn cảnh” mà thiên-nhiên chọn để hát “Chúc cho Đấng ngồi trên ngôi”. Thế nên những bài cô viết ít khi được gợi hứng từ hoàn cảnh.
Thủy Như: Cô học nhạc từ đâu? Điều này có ảnh hưởng như thế nào trong việc sáng tác của cô?
Vĩnh Phúc: Mục sư Vũ Hồng Tuấn dạy cô những nốt nhạc đầu tiên. Nhạc sĩ Thẩm Oánh là nhạc sư mà cô theo học nhiều năm nhất. Thế nhưng cô lại không phải là người giỏi nhạc vì cô không nhớ được hết những gì mình đã học. Cô nghĩ rằng nhiều người khác có lẽ cũng giống cô: Vì yêu Chúa, nên tâm hồn mình tự động “vỡ” ra thành khúc hát.
Thủy Như: Cô đã sáng tác bao nhiêu ca từ? Những bài nào cô tâm đắc nhất?
Vĩnh Phúc: Cô không nhớ mình đã viết bao nhiêu lời Việt cho các bài Thánh Ca, nhưng nhạc sĩ Nguyễn Văn Thanh lưu trữ đầy đủ những bài cô viết từ trước đến bây giờ. Hình như cô không có bài nào “tâm đắc” vì bài nào cô cũng hết sức chu đáo khi viết, để hết tâm hồn vào bài, ý nghĩa phải rõ ràng, mạch lạc, chữ phải chọn lọc, lời phải trau chuốt và phải chú ý đến vần.
Ba cô dạy cô cách làm thơ, ngoài việc sử dụng bằng, trắc cụ hướng dẫn cô đặc-biệt về vần trong thơ. Đương nhiên phải chọn những chữ có vần theo đúng luật, nếu không có chữ đúng y vần mà cụ gọi là chữ có “bà con gần” thì phải chọn những chữ có “bà con xa”. Phải cố gắng lựa những từ ngữ đẹp để đặt vào bài thơ. Việc học hỏi này rất hữu ích khi cô áp dụng vào việc viết lời cho Thánh Ca.
Vì âm nhạc có các nốt cao thấp khác nhau, đã vậy, Việt ngữ lại có các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng rất khó viết, nên phải hết sức thận trọng khi ghép các từ ngữ làm sao cho đúng cao độ của âm nhạc, nếu không người nghe sẽ khó tiếp thu được lời hát trong tiếng Việt. Âm nhạc có 7 nốt chính là “Do-Ré-Mi-Fa-Sol-La-Si” không dễ ghép lời Việt, nhất là âm điệu nốt này liên tục sang nốt kia lại quá gần gũi, ví dụ như bài “Phước Cho Nhân-Loại” (Joy To The World) Thánh Ca cũ số 54, câu mở đầu “Phước cho nhân loại Chúa ta ra đời”,Thơ Thánh trang 132 (in vào tháng July 1939), câu mở đầu “Thế gian vui vẻ bởi Christ giáng hạ…” nhạc là “Do-Si-La-Sol-Fa-Mi-Ré-Do” rất khó để viết cho đúng với các dấu của Việt ngữ nên đôi khi người viết phải chọn những từ ngữ tương đương, vì khó như thế nên nếu thiếu kiên nhẫn sẽ dễ dàng bỏ cuộc.
Thủy Như: Có phải tất cả ca từ và có lẽ một số bài hát trong tập Tiếng Hát Chiên Thơ là do cô sáng tác?
Vĩnh Phúc: Cô chưa hề biết tập “Tiếng Hát Chiên Thơ” bao giờ. Cô chỉ nhớ là mấy chục năm trước, ông Hà Hữu Quang có yêu-cầu cô viết một số đoản ca dùng cho các em nhỏ, được in trong cuốn “Em Vui, Em Hát” do Hội Hoàn Cầu Khải Tượng (World Vision) in. Sau này những người thực hiện các tập bài hát đều sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau, cô không giữ được những đoản ca mình đã viết hồi ấy, nhưng nếu đọc lời ca thì cô sẽ biết bài nào do mình viết. (Xin xem những bài do cô Vĩnh Phúc viết trong tập “Tiếng Hát Chiên Thơ” ở đây.)
Thủy Như: Lời ca cô viết là do “đặt hàng” hay là do cảm hứng?
Vĩnh Phúc: Trước đây, đôi khi cô tự chọn bài để viết, đôi khi có người nhờ viết lúc Hội Thánh có nhu cầu vào các dịp lễ đặc biệt. Sau này cô thấy thực sự là Hội Thánh Tin Lành Việt Nam nói chung đều rất cần những Thánh Ca Việt ngữ, không chỉ dùng vào các dịp lễ đặc biệt như Giáng Sinh, Thương Khó, Phục Sinh, Lễ Cưới, Lễ Tang… mà ngay cả các buổi thờ phượng hằng tuần, các nhóm nhỏ, thanh thiếu niên, nam giới, nữ giới, nhi đồng… đều rất cần bài để tôn vinh Chúa nên cô chú tâm viết về nhiều chủ đề khác nhau. Tuy hiểu biết giới hạn, nhưng cô rất kỹ lưỡng, cô không quan tâm đến số lượng bài mà cần nhất là phải chu đáo, không cẩu thả, bài nào cô cũng chọn từng chữ, trau chuốt từng chữ. Dù vậy, vẫn khó tránh khỏi khuyết điểm. Cô nghĩ rằng tại hải ngoại, thế hệ sau mình sẽ không còn dùng tiếng Việt nữa nên hầu hết các bài viết, cô đều hướng về Hội Thánh trong nước.
Thủy Như: Cô có sáng tác nhạc không?
Vĩnh Phúc: Có! Cô học sáng tác với nhạc trưởng Hoàng Trọng. Hồi ấy có những bài thực tập, sau khi một số bài tập được Hoàng Trọng sửa chữa, cô có viết lời ca cho các bài ấy nhưng cô lấy tên khác mà không dùng tên Vĩnh Phúc.
Thủy Như: Phần nhiều các ca khúc cô viết là các nhạc phẩm Cơ Đốc. Cô có sáng tác nhạc đời không? Nếu có, đó là những bài nào?
Vĩnh Phúc: Có. Cô viết lời ca chừng vài chục bài nhạc đời, với nhạc của nhạc sĩ Hoàng Trọng. Những bài dưới đây đã được phát-hành và phổ biến trong nước và hải ngoại từ các thập niên 1960-1970 :
Tựa đề
Lời
Nhạc
Cánh Hoa Yêu
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Đây Bình Minh
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Đường Về Dĩ Vãng
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Hai Phương Trời Cách Biệt
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Một Người Lên Xe Hoa
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Một Thuở Yêu Đàn
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Ngàn Thu Áo Tím
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Người Đi Chưa Về
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Nhặt Lá Vàng
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Nhớ Hoài
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Tìm Một Ánh Sao
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Tình Thơ Mộng
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Tình Ta Như Giấc Mơ
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Tôi Vẫn Yêu Hoa Màu Tím
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Trang Nhật Ký
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Vào Mộng
Vĩnh Phúc
Hoàng Trọng
Ngoài ra, cô cũng viết lời ca cho 3 nhạc phẩm của Bác sĩ Phạm Anh Dũng: Người Yêu Dấu Mang Tên Một Loài Hoa, Hoài Mong, và Thơ Ấu Qua Rồi!
Thủy Như: Bài “You Needed Me” được cô viết lờì Việt là “Chúa Quá Yêu Tôi”. Bài này trong nguyên tác tiếng Anh không phải là một nhạc phẩm Cơ Đốc. Làm sao cô có những ý tưởng để viết lời gần sát như nguyên tác nhưng lại rất “Cơ Đốc” trong bản tiếng Việt?
Vĩnh Phúc: Hỏi gì mà … oái-oăm thế! Chúa dẫn dắt thôi, cô chẳng tự mình làm được gì đâu !
Thủy Như: Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm đã sáng tác một số nhạc phẩm lúc ông đang ở tù cải tạo. Cô có viết lời cho một số bài ấy và giúp chuyển các bài này ra hải ngoại. Cô có nhận biết những việc làm này là nguy hiểm không? Tại sao cô lại làm những điều đó?
Vĩnh Phúc: Là con cái Chúa, ai cũng cần chia sẻ những gì liên quan đến tâm linh cho người khác. Hồi cô nhận được các bài của nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm từ trong tù chuyển ra, vì là Thánh Ca tôn vinh Chúa và nói lên nỗi niềm của những người tin nhận Ngài trải qua những thăng trầm trong cuộc sống. “Nguy hiểm” như em nói thì cũng có, vì có lần nhạc sĩ Nguyễn Văn Thanh đã bị gọi lên quận “làm việc”. Khi trở về, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thanh đã nhờ ông Lâm Lý Trí đến cho cô biết là họ có nhắc đến cô và bảo rằng “Chị Vĩnh Phúc vi-phạm nghị-quyết số 297 (thì phải) về sáng-tác”. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thanh nhanh trí trả lời: “Chị Vĩnh Phúc không sáng tác! Chị ấy chỉ dịch thôi”. Họ không chỉ để ý các thư mình gửi ra ngoại quốc mà họ còn theo dõi những sinh hoạt của mình ngay tại địa phương và nhất là tại nhà thờ nữa. Tuy vậy, cô thấy cần phổ biến cho Hội Thánh khắp nơi nên cô đã tìm cách gửi đi. Trên hết là nhờ Chúa giúp đỡ, cô lại cẩn thận không ghi tên và địa chỉ người gửi và Chúa thương cho bài “cất cánh bay đi an toàn” rồi người này chuyển sang cho người kia ở những nơi có Hội Thánh người Việt. Cô chẳng nhớ cô đã viết lời ca những bài nào của nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm, ngoại trừ bài “Khúc Nhạc Nô-ên”.
Cô nghĩ rằng văn nghệ đáng lẽ không nên bị ràng buộc bởi thời thế, nhất là những bài Thánh Ca, nhưng thực tế nhiều khi cũng bị giới hạn. Ngay cả hồi còn Việt Nam Cộng Hòa, những bài tình ca cô viết chung với nhạc sĩ Hoàng Trọng, khi qua kiểm duyệt thì khá nhiều lần Bộ Thông Tin đã yêu-cầu phải sửa lại một số câu, một số từ ngữ, vì họ nói là “đất nước đang chiến tranh, nếu văn chương… lãng mạn quá sẽ làm nhụt chí binh sĩ…” Sửa đi sửa lại dĩ nhiên là “méo mó” cả bài hát, ý nghĩa bài không còn trung thực như lúc khởi đầu nữa.
Thủy Như: Cô sang Mỹ năm nào? Công việc mưu sinh của cô có liên hệ đến lĩnh vực sáng tác của cô hay không?
Vĩnh Phúc: Cô đến Mỹ vào ngày 10 tháng 4 năm 1990, định cư tại thành phố Houston, Texas, nhưng mãi đến tháng 09 năm 1991 cô mới xin việc làm tại một công ty thương mại mà trước đây hồi còn ở Việt Nam, cô đã là nhân viên của công ty này nên cô phải di chuyển đến Nam Cali để làm việc. Công việc thương mại thì rất khô khan, căng thẳng… khác hẳn với tâm hồn yêu thích văn nghệ của cô, dù vậy cô không tách rời âm nhạc ra khỏi trái tim mình được nên tuy phải làm việc bận rộn, cô cũng cố gắng sử dụng ân tứ Chúa ban để hầu việc Ngài. Cô luôn hết lòng cảm ơn Chúa vì đây là niềm hạnh phúc cao quý nhất mà Chúa ban cho cô trong đời sống theo Ngài.
Thủy Như: Sáng tác ở Mỹ và ở Việt Nam khác nhau như thế nào?
Vĩnh Phúc: Với cô, sáng tác là từ tâm hồn, ở quê nhà hay ở hải ngoại đều không ảnh hưởng gì hết ngoại trừ công việc bận rộn thì bị hạn chế phần nào mà thôi.
Thủy Như: Cảm ơn cô rất nhiều cho cuộc phỏng vấn này.
Cô Vĩnh Phúc hiện đang sinh hoạt tại Hội Thánh Tin Lành Giám Lý Anaheim, California. Bạn có thể xem danh sách những ca khúc do cô Vĩnh Phúc viết lời tại trang Vĩnh Phúc của Bách Khoa Từ Điển Tin Lành.
Thủy Như Anaheim, California 03/28/2015
*****
VÀI BÀI HÁT VĨNH PHÚC VIẾT LỜI THÁNH CA
(3 bài nhạc Phạm Anh Dũng, lời Vĩnh Phúc cũng có thể nghe, ở cuối email này)
Hoài Mong (nhạc Phạm Anh Dũng, lời Vĩnh Phúc) Bảo Yến hát, Quang Đạt hòa âm, Hoàng Khai Nhan thực hiện video với tranh Nguyễn Sơn: https://www.youtube.com/watch?v=GPNGcv7Le3U Ẩn Lan hát, Nguyễn Hữu hòa âm, Hoàng Khai Nhan thực hiện video với hình ảnh Đinh Văn Linh & Hoàng Khai Nhan: https://youtu.be/DKTNI7EQCrc
PHIM: Blue Bayou (Justin Chon) / NHẠC: Ngỡ (Phạm Anh Dũng-Sóng Việt Đàm Giang)
Thưa quý vị
Khoảng năm 2020, tôi có được một nhà sản xuất phim liên lạc qua hội VAALA (Vietnamese American Arts and Letters Association). Họ tìm chọn 1 bài hát tiếng Việt cho phim sẽ có tên Blue Bayou, lúc đó đang quay. Phim này ngoài các tài tử Đại Hàn, Hoa Kỳ… có Linh Dan Pham là 1 diễn viên điện ảnh gốc Việt, nổi tiếng với phim Indochine 1992 từng đoạt giải Oscar. Tôi gửi cho họ vài bản, mỗi bản tôi viết theo 1 kiểu như nhạc Tiền Chiến, Blues, Dân Ca, Bán Cổ Điển… và họ chọn bài Ngỡ tôi phổ thơ thi sĩ Sóng Việt Đàm Giang, nhạc “phổ thông”, và tôi đã có thu thanh do Khánh Duy hát. Người đạo diễn phim là Justin Chon (đã từng đoạt khá nhiều giải thưởng điện ảnh trong phim Gook 2017) rất thích bài hát và hỏi phép cho được sử dụng. Tôi và DS Đàm Giang, có ký giấy ưng thuận.
Chuyện lúc đó là như vậy thôi và rồi tôi không biết tin tức gì cả. Sáng hôm nay, nhớ lại và google thấy như sau
Chị ruột yêu thương của tôi, tên là Phạm Thị Dung và các bạn chị gọi là Phạm Dung hay Phạm Dung-Lê Đình Điểu (ghép tên chồng vào), nhưng tôi chỉ thích gọi hay viết: chị Dung. Anh Điểu, anh rể tôi, viết nhiều thơ bút hiệu là Y Dịch.
Chị vừa qua đời, tôi bàng hoàng và vì mất chị thành muốn viết vài hàng.
Gia đình tôi tất cả 13 anh em, nay không có chị nữa, chỉ còn 3 và anh chị em tôi không ai có thể so được với chị. Từ ngày xưa còn bé cho đến bây giờ, lúc nào tôi cũng xem chị như một tấm gương sáng để theo.
Chị Dung ít nói nhưng nghiêm và tôi chắc chắn các anh chị em chúng tôi đều nể phục nghe lời chị, dù chị không phải là con trưởng ở gia đình. Riêng tôi, tôi còn “sợ” chị vì hồi nhỏ hay bị khảo bài trước khi đi học. Có lẽ vì vậy sau này tôi học cũng tạm đâu vào đấy. Thú thật trong nhà chỉ có chị Dung và anh Vân (cũng qua đời lâu rồi) là đáng kính cảm phục, còn lại đám anh chị em trước sau, kể cả bản thân tôi đều không nhiều thì ít đều không hoàn toàn.
Chị nghiêm nhưng chị cũng rất hiền, rất tốt với mọi người, giúp đỡ tất cả kể cả người lạ nhưng không may. Điểm này chị giống mẹ chúng tôi y hệt. Cụ đã hết tiền dành dụm vì nấu cháo cho người đói ăn hồi nạn đói năm Ất Dậu.
Chị Dung rất thích âm nhạc. Chị đã từng đậu vào Quốc Gia Âm Nhạc, chị thích học mandolin, nhưng nhà không đủ điều kiện để chị học cả chữ và nhạc.
Chị học Trưng Vương, ra trường đậu Tú Tài hạng cao được học bổng đi Hoa Kỳ học.
Trước đó chị bắt đầu quen với anh Điểu và hai người yêu nhau. Khi chị đi Hoa Kỳ năm 1961, với bút hiệu Y Dịch, anh có làm bài thơ Tiễn Em và tôi có viết thành bài nhạc Tháng Bảy Chưa Mưa năm 1992.
Lúc đó còn một kỷ niệm vui là “ai” chụp ảnh chị đang đi xe velosolex đăng lên National Geographic tháng 10 năm 1961, sau khi chị đã đi. Chị không nói, mãi đến sau này tôi mới biết.
Năm 1963, chị tốt nghiệp BS of Nursing và lấy được bằng hành nghề Registered Nurse. Khi về nước chị đi dạy Nursing ở trường Cán Sự Điều Dưỡng và dạy Anh Văn ở Hội Việt Mỹ. Anh Điểu, chồng chị, làm đến Cục Trưởng Cục Nội Vụ của Tổng Cục Thông Tin Chiêu Hồi nhưng vẫn không đủ sống thoải mái vì chị vẫn phải giúp đỡ cha mẹ và các anh chị em.
Chị Dung hiền không trách ai bao giờ. Hiền đến nỗi chỉ thở dài, không trách cứ ai, kể cả nhưng người tưởng là bạn nhưng đã làm hại đến chồng con, gia đình mình. Tôi chưa hề thấy chị nói xấu người khác bao giờ.
Nhưng chị cũng rất vững vàng. Sau “giải phóng” 1975, chị mất việc và ở nhà nuôi 3 đứa con bằng cách thổi xôi bán chợ trời khi chồng đi học cải tạo. Khó tưởng tượng và thật là kiên trí, mẹ bồng bế 3 con lôi thôi lếch thếch vượt biên 9 lần, vài lần bị bắt tù, mà vẫn không thoát!
Sau những cái rủi cũng đến cái may. Rồi sau gia đình cũng may qua được Pháp 1983, khi anh Điểu đi học tập về, vì bố chồng chị ngày xưa là Trung Úy Quân Đội Pháp và dù cụ đã qua đời rồi chính phủ Pháp vẫn lo cho gia đình đi.
Tôi đón gia đình anh chị qua Hoa Kỳ năm 1985. Anh Điểu theo nghề ký giả cho báo Việt, nghề bạc bẽo, bận, không có tiền và thỉnh thoảng còn bị “chụp mũ”. Căn bản là lương của chị Dung hành nghề school nurse. Vợ chồng sau cũng mua được nhà cửa ở Bellflower, giữa Orange County và Los Angeles. Gia đình, con cái… hầu như mọi sự do chị lo để anh đi lo chuyện “vác ngà voi”.
Rồi anh Điểu qua đời 1999 vì bệnh bất ngờ và chị Dung “ở vậy” từ đó đến nay, kể cả khoảng 10 năm ở một mình trong căn nhà cũ đầy kỷ niệm. Những năm sau này có con cháu về ở chung cũng đỡ vắng vẻ hơn.
Khoảng 2 năm rưỡi trước đây, chị được bác sĩ cho biết là bệnh nặng cần hóa quang trị và giải phẫu. Chị qua các trị liệu dễ dàng. Nhưng khoảng sáu tháng sau này bệnh quay lại và lần này có không thuốc chữa được.
Ba ngày trước, cháu Y Sa, con gái chị gọi điện thoại cho biết tin dữ. Dù biết chuyện không tránh được, tôi nghẹn lời không nói ra lời và phải cúp điện thoại. Hôm nay nghĩ và viết những dòng này mới thấy chị là một con người thật “đẹp” và tôi dám chắc chị Dung đã dễ dàng siêu thoát về nơi cao, nơi có anh Điểu đang chờ đã 20 năm.
Chị Dung đã “đi xa” mãi mãi rồi!
Phạm Anh Dũng ngày 29 tháng Tư năm 2019
********************
Tấm ảnh “Hình ảnh một buổi chiều”
Tôi vẫn thích sưu tầm ảnh đẹp. Nhìn ngắm một bức ảnh đẹp, thấy lòng mình như lắng xuống, thấy tâm hồn như dịu lại và cuộc sống như cũng dễ chịu hơn. Không chỉ thích ảnh đẹp tôi còn thích đặt tên cho ảnh. Nhiều ảnh không cần phải đặt tên, thế nhưng có đôi lúc gặp bức ảnh gợi nhiều cảm xúc tôi vẫn muốn tìm cho ảnh một cái tên.
Tấm ảnh tôi xem được ở nhà chị Dung là một ảnh như thế. Tấm ảnh khá quen thuộc với những người thân của chị. Tôi gọi tên ảnh là “Hình ảnh một buổi chiều”.
Tôi nhớ, trong chuyến đi Nam Cali ngắn ngày nhiều năm trước, chị Dung nhắn vợ chồng tôi ghé nhà chơi. Trước đó tôi được chị gửi tặng tập sách quý với chữ ký chỉ phác vài nét tên chị, cũng dung dị như tính cách của chị. Trong sách có cái “note”, chị nói phải gửi qua bưu điện vì chờ mãi chẳng thấy xuống để đưa tận tay. Tập sách đầy đặn, là “Tuyển tập Lê Đình Điểu”.
Chị Dung có lối nói chuyện thật tự nhiên và thân mật khiến người nào gặp chị lần đầu cũng cảm thấy thoải mái và gần gũi.
Hôm ấy tôi cũng được gặp những con người thật nghệ sĩ trong gia đình chị là chị Bích Huyền (phụ trách “Chương trình thơ, nhạc” quen thuộc đài VOA) và anh chị Phạm Anh Dũng (nhạc sĩ sáng tác, với nhiều ca khúc phổ thơ).
Sau bữa cơm gia đình là buổi “trà đàm” văn nghệ khá lý thú giữa mấy chị em trong nhà. Tôi không định nhắc tên anh Điểu, thế nhưng đến khi chị Bích Huyền đọc câu thơ trong bài thơ nào của Y Dịch,
Lần đầu em hát theo tà áo Lần đầu anh bối rối bàn tay
tôi buột miệng hỏi chị cái lần “anh bối rối bàn tay” ấy có phải là “thuở ban đầu” của anh chị. Hỏi thế là có lý do, tôi nhớ có đọc đâu đó anh Điểu kể chuyện có lần anh phải đỏ mặt xấu hổ vì bị thầy giáo hay cô giáo trong lớp chị “bắt quả tang” anh lóng ngóng đứng chờ chị ngoài hành lang lớp học.
Tôi chỉ nhớ được mỗi câu lục bát của anh, bèn đọc cả nhà nghe và nói tôi thích câu thơ ấy vì rất gần với ca dao và thơ Nguyễn Bính.
Mùa thu có lá ngô rơi Có đôi người mới thành đôi vợ chồng
Chị Dung nói chị cũng thích câu thơ ấy và anh chị đều thích thơ Nguyễn Bính. Rồi vui chuyện, chị kể thêm những bài thơ nào anh viết tặng chị, những bài hát nào hai người cùng thích, những cuốn phim nào hai người cùng xem như là những kỷ niệm ngọt ngào và cả những nơi chốn đầy những “dấu chân kỷ niệm” của anh chị kể từ ngày hai người gặp nhau, yêu nhau trong sân trường Văn khoa. Tôi nhớ chị nhắc tên phim “Vũ điệu trong bóng mờ” (La valse dans l’ombre) và tên bài hát “Tà áo Văn quân” của Phạm Duy Nhượng, như nhắc tôi nhớ ra rằng từng có một bài hát đẹp như thế trong nhạc Việt, kể về câu chuyện… “Một chàng phiêu lãng, ôm đàn tới giữa đời.“
Từ lúc ấy tôi chỉ có mê mải ngồi nghe và nghe, chỉ thỉnh thoảng góp chuyện. Tôi nhớ định nói chị nên viết hồi ký kể lại câu “chuyện hai người” ấy nhưng lại thôi, và chỉ nói thật tiếc là tôi đã không được gặp anh ngày trước.
Đến một lúc câu chuyện tạm ngưng, chị Dung bỗng đứng dậy nói vợ chồng tôi đi theo chị. Chúng tôi bước vào căn phòng nhỏ tĩnh lặng, được chị cho biết là phòng làm việc của anh Điểu. Chị nói từ ngày vắng anh, chị giữ nguyên trạng các vật dụng bày biện trong phòng, như là anh chỉ mới vừa đi xa. Thỉnh thoảng chị vào phòng lau chùi bụi bặm, kéo màn cửa cho ánh nắng rọi vào.
Đứng bên chị, tôi đưa mắt nhìn quanh. Những giá sách, thật nhiều sách, và những tranh ảnh rải rác. Tôi chú ý chiếc khung ảnh trên bàn làm việc của anh. Tấm ảnh đen trắng, mờ mờ. Chị đứng nép một bên vai anh, tựa đầu lên vai anh. Anh cúi nhìn chị, nụ cười ấm áp thương yêu. Cánh tay chị quàng lên vai anh, và bàn tay anh nắm giữ bàn tay chị. Anh có nụ cười thật hiền, chị có miệng cười thật đẹp, để lộ đường răng trắng. Trông anh chị như đôi chim bồ câu quấn quýt không rời.
Tôi đứng nhìn thật lâu, như bị hút vào tấm ảnh, tưởng nhìn thấy được hạnh phúc trên nét mặt chị, trên nụ cười chị và cả trên những lọn tóc chị. Tựa đầu lên vai anh, khuôn mặt chị nằm nghiêng, mái tóc cũng nằm nghiêng. Mái tóc anh từng yêu, từng viết thành bài thơ tặng chị. Tôi không nhớ bài thơ như thế nào nhưng nhớ rằng bên dưới cái tựa chỉ có một chữ “Tóc” ấy anh viết xuống câu dẫn vào bài nhạc “Hình ảnh một buổi chiều” của Lâm Tuyền và Dạ Chung, “Anh không giữ trong tay một kho tàng hay một danh vọng nào cả, anh chỉ giữ hình ảnh một buổi chiều, khi nắng vàng nhuộm mái tóc em.”
“Ảnh cũ lắm rồi,” chị Dung nói. Tôi nói tấm ảnh đẹp giống như bài thơ hay, chẳng bao giờ cũ cả. Tôi lại quên hỏi chị ảnh chụp lúc nào, ở đâu. Không gian ấy có thể là buổi sáng hay buổi chiều nhưng tôi cứ cho là buổi chiều vì nhớ dòng chữ anh Điểu ghi trên đầu bài thơ tặng chị. Nơi chốn ấy có thể là đồi cỏ hay cánh đồng nào ở miền quê. Xa xa, sau lưng hai người, là rặng núi mờ mờ.
Trong thoáng chốc, tôi thấy lòng mình như se lại. Tôi nghĩ đến những lần chị Dung một mình bước vào căn phòng vắng lặng ấy, một mình chị ngắm nhìn những kỷ vật nằm im lìm ấy, và cả tấm ảnh mờ mờ đánh thức trong chị những thoáng hạnh phúc mơ hồ, xa xăm. Chị giữ căn phòng ấy như giữ chút hơi ấm của người chồng muôn thuở.
Sau ngày anh mất, chị Dung đã có những năm sống một mình, lặng lẽ như chiếc bóng trong ngôi nhà đầy kỷ niệm ở Bellflower. Chị làm bạn với hoa lá trong mảnh vườn sau nhà, chị tận hưởng sự tĩnh lặng và cứ một mình một bóng như thế cho đến khi các con chị dọn về ở với chị.
Trở vào phòng khách, tôi nói đùa câu gì đó cho chị vui, nhưng không thấy chị cười. Chị lặng yên như đang suy nghĩ chuyện gì hay đắm chìm trong thế giới nào riêng tư.
Nhớ lần sau cùng tôi gọi điện thoại thăm chị Dung. Chị nói dạo sau này không được khỏe lắm, rồi chị nói sang chuyện khác. Chị Dung là vậy, chị chia sẻ niềm vui, chị giấu kín nỗi buồn. Chị không nói về mình, chị chẳng kể ai nghe, nhiều bạn bè chị không hề hay biết gì về bệnh tình của chị cho đến khi…
Hôm được tin chị mất, tôi tưởng mình nghe lầm, tôi mong là mình nghe lầm.
Cứ mỗi lần hay tin một người thân quen nào đột ngột qua đời, tôi lại có cảm giác thật hụt hẫng như vừa bước hụt vào khoảng không và nhận rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa đến tột cùng của đời sống.
“Thứ Bảy này cả nhà sẽ tiễn đưa chị Dung,” chị Bích Huyền nói với tôi đêm qua. Chị rưng rưng nói chị rất buồn và nhớ.
“Chắc giờ này chị Dung đã gặp lại anh Hà,” sau cùng chị Bích Huyền nói.
“Tôi cũng tin như vậy,” tôi nói vậy, rồi mở cánh cửa sau bước ra ngoài, ngước nhìn bầu trời đêm lác đác sao. Tôi dõi mắt trông về một ngôi sao xa nhất, khi ẩn khi hiện trên nền trời đen thẫm, trông xa vẫn thấy lấp lánh như có một linh hồn.
“Em đi rồi, anh trở về hồn lạnh, mắt sao rơi…“
Câu hát ấy ở trong bài nhạc phổ thơ Y Dịch, bài thơ “Tiễn em” anh viết tặng chị khi tiễn đưa chị lên đường du học Hoa Kỳ, là thời kỳ hai anh chị mới yêu nhau… thì xa nhau. Người phổ bài thơ ấy là em chị Dung, nhạc sĩ Phạm Anh Dũng.
“Hai nốt nhạc ‘sao rơi’ ấy nghe thật là mênh mang,” tôi nói với anh Dũng như vậy.
* * *
Chị Dung đã sẵn sàng và chuẩn bị mọi thứ cho chuyến đi xa của chị. Chị bình thản chờ đợi điều xấu nhất đến với mình; hơn thế nữa, chị mong đợi điều ấy đến với mình.
Chị mong đợi ngày ấy, như anh từng mong đợi chị, như anh và chị từng mong đợi nhau suốt những năm chị du học, suốt những năm anh tù tội. Anh và chị đã quen chờ đợi. Thế nhưng chị không thể bắt anh chờ đợi lâu hơn nữa.
“Mẹ để bố chờ lâu quá rồi, mãi đến 20 năm!” Chị Dung nói với cô con gái mình.
Hai mươi năm của chị Dung chỉ như bóng mây qua, chỉ như giấc mộng dài. Rồi anh chị lại có nhau, lại tay trong tay trên cánh đồng thời gian. Cũng như chị Bích Huyền và bao người thân yêu khác của chị Dung, tôi tưởng nhìn thấy anh đang dang rộng cánh tay về phía chị cùng với nụ cười ấm áp thương yêu, nụ cười thật hiền hệt như trong tấm ảnh ngày xưa ấy.
Anh Điểu “không giữ trong tay một kho tàng hay một danh vọng nào cả”, và chị Dung cũng chỉ giữ có mỗi tấm ảnh mờ mờ ấy. Tấm ảnh “Hình ảnh một buổi chiều”.
Lê Hữu
(*) Hà là tên gọi của anh Điểu trong gia đình.
*******************
Một số bài viết ngắn về Chị Dung, khi chị vừa qua đời:
My dear older sister’s name is Phạm Thị Dung, and her friends call her Phạm Dung or Phạm Dung – Lê Đình Điểu (combining her name with her husband’s). But I only like to refer to her as: “Chị Dung,” meaning “Older Sister Dung.”
She just passed away. I am shaken and just want to write down these thoughts.
We were initially 13 brothers and sisters and now without her, there are only three of us left, and nobody in our family can be compared to her. Since a child until today, I have always looked up to her as a great role model.
My sister Dung was not talkative and was stern. I am sure that all of us, brothers and sisters, including me, listened to her, although she was not our eldest sibling. As for me personally, I also “feared” her, because I used to be quizzed by her before I left for school. Probably thanks to her attention, I turned out to be an OK student. My sister Dung and Phạm Sĩ Vân, one of my brother (who passed away a long time ago) were admittedly worthy of my respect. The rest of us, either older or younger than me, and including myself, are more or less imperfect individuals.
Although she was stern, Dung was very nice and kind to everyone, ready to help anyone including strangers who met with unfortunate events. In this regard, she was exactly like our mother. Our mother had spent all her savings to cook porridge for the poor during the Ất Dậu Famine of 1945.
Dung had a passion for music. She enjoyed listening to music, especially the semi-classical kind. She loved playing the mandolin and graduated from the School of Popular Dance and Music as a vocalist. By default, she could have gone on to the National Institute of Music without an entrance exam. But our family was not well-to-do enough to afford both her general and musical educations.
So she attended and graduated from Trưng Vương High School in Saigon. She then received a scholarship to study in America.
Before finishing high school, she met her future husband Điểu, and they fell in love. When she left the country for the United States in 1961, he, under the pen name Y Dịch, wrote the poem entitled “Good Bye My Lover” that in 1992 I set to music with the name “It Hasn’t Rained Yet In July.”
There was also a pleasant memory from that time, as a reporter had taken a picture of my sister Dung while she rode her velosolex in Saigon, and that photograph appeared in the October 1961 issue of National Geographic. She did not tell us this, and I only knew about it decades later.
In 1965, she completed her Bachelor of Science degree in Nursing and passed the exam to earn her Registered Nurse certification. Going back to Vietnam, she worked for the Ministry of Health, taught nursing at School of Nursing, and English at the Vietnamese American Association. Although Điểu, her husband, was a high-ranking official in South Vietnam’s Ministry of Mass Mobilization and Open Arms, they were not quite well-to-do, because they also had to support their parents and siblings.
Dung was so kind that she never complained about anyone, including those who presumably were her friends but harmed her loved ones. She only sighed, and I never heard her criticized any other person.
But she was also strong. After the so-called “liberation” of South Vietnam in 1975, she lost her jobs and stayed home. She managed to raise her three children by trading at swap meet and cooking sweet rice. That was her toil while her husband went to “re-education camps.” She showed incredible perseverance in bringing her three small children along on nine attempts to escape the country. The poor mother and children were caught and detained several times, and they never succeeded!
After all those misfortunes came fortune. Her family finally went to France in 1983, after Điểu went back from “re-education camps.” Because Dung’s father-in-law was an officer of the French colonial army, the French government accepted the family’s application for refuge, even after he had passed away.
I sponsored her family as they migrate to America in 1985. Here, Điểu worked as a journalist for a Vietnamese newspaper, a low-paying, time-consuming job which also incurred the risk of being labeled wrongly as “communist.” They basically lived on Dung’s salary as a school nurse. They later managed to buy a house in Bellflower, a city situated between Orange County and Los Angeles. She took care of almost everything, including house chores and rounding up the kids, so her husband could perform the pro bono works.
Điểu suddenly succumbed to sickness and passed away in 1999, and Dung stayed single ever since, including a ten-year span when she lived alone in the old house full of memories. In recent years, some of her children moved back and her grandchildren often visited her, so she was less lonely.
About two and a half years ago, she was told by her doctor about her cancer that needed chemotherapy, radiation therapy and surgery. She went through these treatments smoothly. But in the past six months or so, the cancer came back, and this time there was no effective cure.
Three days ago, her daughter Y Sa informed me of the bad news. Even as I already knew that it was inevitable, I choked up and had to hang up the phone. Today, while thinking and writing these lines, I have realized that my sister was so “beautiful” as a person. I dare to believe that Dung has easily transcended to a high place, where Điểu has been waiting for the past 20 years.
My sister Dung has departed forever!
Phạm Anh Dũng April 29, 2019
translated by Lê Đình Nhất Lang
Photo 1: Dung in the October 1961 issue of National Geographic
Photo 2: Điểu and Dung (taken by Trần Đại Lộc in an incidental moment in 1966)
Từ khi hội họa được chính thức tôn trọng như một nghệ thuật tôn quý, các họa sĩ thường chọn sẵn cho mình môt trường phái để theo đuổi như Renaissance với Donatello, Leonardo Da Vinci, Sandro Bortinelli, Michael Angelo, Jan Van Eyck; Baroque với Bernini Rembrant; Neo-classicism với Jacques Louis David, Impressionism với Monet, Van Gogh, Cézanne, và Paul Gaughin; Cubism với Picasso… Cuối thế kỷ 20 lại có Futurism và Motion, rồi Unrealistic với khá nhiều họa sĩ đương đại. Theo chiều hướng đó, các họa sĩ Việt Nam (ở miền Nam) cũng được tự do theo đuổi một đường lối riêng của mình để cho ra đời những tác phẩm độc đáo, ngoài những trường phái trên, đặc biệt là nghệ thuật hội họa mầu nước và vẽ trên lụa.
Tương tự như thế, các nhạc sĩ sáng tác Việt Nam (trừ các nhạc sĩ ở miền Bắc không có tự do sáng tác) cũng tự chọn cho mình một đường lối sáng tác riêng biệt. Với trường phái lãng mạn và viết theo quy tắc cổ điển qua các nhịp điệu Valse, Blue, Tango, hay Slow, có các nhạc sĩ tiền phong của nền tân nhạc như Văn Cao, Phạm Duy, Tô Vũ, Lê Thương, Chung Quân, Anh Việt, Dương Thiệu Tước, Doãn Mẫn, Đoàn Chuẩn, Từ Linh, Đặng Thế Phong, Đỗ Nhuận, Hiếu Nghĩa, Hoàng Quý, Hoàng Giác, Hoàng Trọng, La Hối, Đan Trường, Lê Trạch Lựu, Ngọc Bích, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn Khánh, Lê Mộng Nguyên,.. Các bản nhạc này thường được sáng tác trong thập niên 30 trước chiến tranh Việt-Pháp nên được gọi là “Nhạc Tiền Chiến”. Thực tế, nhiều bản nhạc đã được sáng tác sau cuộc di cư 1954 cũng được gọi là “nhạc tiền chiến” vì cũng mang âm hưởng lãng mạn, cổ điển như các bản nhạc của thập niên trước. Sau đó là những bản nhạc mang một chút cách tân của Cung Tiến, Lâm Tuyền, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Hiền, Nguyễn Mỹ Ca …Riêng nhạc của “Thầy” Nguyễn Văn Đông, một Tiến Sĩ Âm Nhạc Paris, là Thầy của rất nhiều ca sĩ nổi tiếng Saigon, đã mang một âm hưởng đặc biệt, vì ông còn là một đạo diễn cổ nhạc Đông Phương Tử, một kịch tác gia có nhiều thoại kịch đem lại những tiếng cười cùng những giọt lệ trên sân khấu Saigon qua những vở kịch do Kim Cương đóng làm Saigon đẫm lệ.
Điều đáng ngạc nhiên là sau cuộc di cư 1954, âm nhạc Việt lại nổi lên một chiều hướng mới: nhạc phổ thông (Popular hay Pop) gồm những bản nhạc kể lể những nỗi buốn da diết với những mối tình không trọn vẹn. Các nhạc sĩ thuộc trường phái phổ thông này thường sử dụng loại nhạc Rumba, Bolero nhịp nhàng để làm giá nâng đỡ cho các lời hát thật đơn giản như lời kể chuyện bình thường để có thể thấm nhập một cách dễ dàng vào những tâm hồn đơn sơ của người miền Nam. Cùng thập niên đó, các bản nhạc theo thể điệu Slow, Slow Rock, March, hay Paso Doble cũng rất được ưa chuộng. Trong số những nhạc sĩ tiêu biểu của loại nhạc này, người ta thấy có: Anh Bằng, Đinh Trầm Ca, Khánh Băng, Hoàng Nguyên, Nhật Ngân, Trịnh Lâm Ngân, Y Vân, Đỗ Kim Bảng, Phạm Mạnh Cương, Lê Hựu Hà, Phạm Trọng Cầu,Trầm Tử Thiêng, Lê Trọng Nguyễn, Trường Sa, Dũng Chinh, Mạnh Phát, Phạm Thế Mỹ…Nhưng phải nói những bản nhạc phổ thông có lời ca rất mộc mạc, chân thành, có tính chất kể lể của các nhạc sĩ Huỳnh Anh, Lam Phương, Nguyễn Hữu Thiết, Duy Khánh, Hoàng Thi Thơ, Minh Kỳ, Châu Kỳ, Lê Dinh, Thanh Bình, Thanh Trang, Đỗ Lễ, lại được số đông thính giả miền Nam ưa thích vì đã thể hiện giùm họ những điều mà họ nói không được. Bên cạnh đó, có những tác phẩm mang lời nhạc triết lý cao siêu, muốn tách rời âm hưởng của những bản nhạc mang tính chất phổ thông, nhưng không hoàn toàn cổ điển như của Cung Trầm Tưởng, Từ Công Phụng, Trịnh Công Sơn, Phạm Đình Chương, Vũ Đức Sao Biển, Vũ đức Nghiêm, Vũ Thành An…lại có những thính giả chọn lọc khác.
Sau 1975, sang đến hải ngoại, một số tác phẩm được sáng tác sau này bỗng đột nhiên xuất hiện và tạo nên một trường phái mới, dung dị hơn và thẩm thấu vào tâm hồn người nghe nhanh hơn. Trong số những nhạc sĩ sáng tác nhiều sau khi định cư ở Mỹ có Đức Huy và Phạm Anh Dũng. Nhạc Sĩ Phạm Anh Dũng, một Bác Sĩ Y Khoa, nhưng có tâm hồn đam mê âm nhạc mạnh mẽ đến nỗi chỉ trong khoảng 2 thập niên, ông đã sáng tác gần 400 bản nhạc, một kỷ lục hiếm có trong làng âm nhạc. Một điều đặc biệt là ông viết nhiều bản nhạc về một loài hoa phù dung, chỉ nở trong một khoảnh khắc ngắn ngủi rồi tàn ngay: Hoa Quỳnh. Những bản nhạc viết về Hoa Quỳnh gồm có: Quỳnh, Đêm Nguyệt Quỳnh, Quỳnh Hoa, Quỳnh Lan, Quỳnh Giao, Quỳnh Như, Quỳnh Mơ,Với Quỳnh, Nụ Quỳnh rướm máu, Như đóa dạ quỳnh, Quỳnh thi, Quỳnh Lệ, Người yêu dấu mang tên một loài hoa, Dạ Quỳnh Hương, Hoài Mong, Da Khúc. Ông cũng thường nói về chữ Tình: Tình Khúc Mùa Xuân, Tình khúc mùa Hạ, Tình Khúc mùa Thu, Tình Khúc mùa Đông. Những bản nhạc của ông không viết trên những “Melody” phức tạp trong khi ngôn ngữ sử dụng trong bản nhạc lại đơn giản nên nhiều bản nhạc của ông đã thẩm thấu vào tâm hồn của hầu hết người nghe. Hai bản nhạc về Mẹ của ông làm người nghe thấy nước mắt tràn mi: Mẹ Ru Con và Mẹ vàng úa. Trong bài “Mẹ Vàng Úa” có những câu làm cho người nghe muốn khóc: “Mẹ già như cây tàn héo. Nhớ con yêu xa quê lâu rồi. Chiều về về qua xóm nghèo. Chiều vàng, vàng trên đường phố. Mẹ già như nắng vàng úa. Gió heo may hiu hiu u sầu. Nhin dòng sông tím lạnh. Lạnh buồn, lạnh tím tâm hồn. Chiều xuân đó, con đi mai vàng thôi nở. Liễu xuân mềm lặng lẽ rũ bên song. Bầy chim bé tiếng hót đã ngưng từ lâu. Mẹ nước mắt chan hòa má nhăn nheo..Một ngày con đã về đến. Đến quê hương nhưng sao vắng mẹ. Chỉ còn một chiếc bình. Trong bình là tro xác mẹ.”
Những lời nhạc trong các tác phẩm của người nhạc sĩ, bác sĩ y khoa này, dù là sáng tác hay phổ nhạc từ thơ, đều được chọn lựa kỹ càng, và sắp xếp theo một trình tự để người nghe thông cảm được ngay tâm hồn nghệ sĩ của tác giả. Trong bài “Nhạc Quỳnh Cuối cùng”, lời nhạc như thanh thoát gợi buồn, nhưng không quá đẫm lệ: “Đêm khuya dăng sầu, Môt vì sao thấp thoáng trong đêm tối mênh mang, Dòng lệ ai tê tái. Thấm ướt không gian buồn.. Rồi từ xa tiếng dương cầm thoảng theo gió ai sẽ hát cung trầm. Tình đến rồi đi mà sao lòng vẫn mong chờ”.
Những bài thơ được ông phổ nhạc là những bản nhạc được trau chuốt từng âm điệu như bài “Nước Chẩy Qua Cầu” (thơ Hoàng Ngọc Quỳnh Giao): “Mai kia nước chẩy qua cầu, nước đau nước khóc ai sầu nhớ thương. Em đi gió quyện mùi hương. Nắng lên suối tóc, còn vương nốt buồn. Lá rơi từng chiếc bên đường. Vàng phai mầu áo đoan trường cung thương. Nhớ luôn mấy độ tà dương. Vấn vương đỉnh ngự dòng Hương ngập ngừng. Mai kia chạnh nhớ câu thề Qua cầu nước chẩy bốn bề vọng âm.”
Bài “Gửi người dưới mộ” (thơ Đinh Hùng) đã xót xa mà được những cung nhạc buồn của Phạm Anh Dũng làm cho người nghe thấy cả khung trời như chơi vơi quá đỗi: “Trời cuối thu rồi em ở đâu? Nằm bên đất lạnh chắc em sầu? Thu ơi đánh thức hồn ma dậy. Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu. Em mộng về đâu? Em mất về đâu? Từng đêm tôi nguyện cầu. Đây mầu hương khói là mầu mắt xưa.”
Trong khi đó, tính lãng mạn trong tâm hồn người nhạc sĩ đã làm rung lên tiếng nhạc: “Em ơi! đêm thơm môt đóa quỳnh. Cùng em hương vương không gian. Cho ta mơ say ngát tình. Quyện mầu xanh thắm môi em.” (Dạ quỳnh hương).
Đôi khi, Phạm Anh Dũng lại thổ lộ nỗi đau không tên về những kỷ niệm xưa như trong bài “Nhớ Saigon”: “Biết đến bao giờ gặp lại người xưa. Thương cho mùa mua qua thành phố vắng. Lang lang miệt mài năm tháng. Bao nhiêu luyến tiếc xa ngàn. Buồn thương vương lên mầu áo….”
Như thế, viết về Phạm Anh Dũng, thật ra không dễ, vì tâm hồn của ông bao la quá, phương diện nào cũng thấy ông chan chứa tình cảm. Với hơn 400 bản nhạc viết trong môt thời gian kỷ lục, Phạm Anh Dũng đã chứng tỏ tuy là em nhỏ trong làng nhạc sĩ, nhưng cũng không thua kém đàn anh mấy, cũng như Trương Vô Kỵ, hậu sinh khả úy mà võ nghệ tuyệt luân, văn võ toàn tài, chiêu nào đánh cũng ác liệt, nhưng lại luôn nhịn nhường. Phạm Anh Dũng, ngoài đời sống thường nhật, là một người khiêm cung, không vì số lượng các bản nhạc mà ông sáng tác, làm cho ông mất đi bản tính yêu người và thích phục vụ tha nhân của một Quân Y Sĩ từng chiến đấu sinh tử bên chiến hào những năm trước 1975. Ngày cuối năm xa quê, nghe nhạc Phạm Anh Dũng, mà tưởng đến một chàng Vô Kỵ Anh Dũng đang hạnh phúc bên Triệu Minh, xứng đáng cho thời gian lao tâm khổ trí bên những cung nhạc phục vụ cho đời.
Thuở mới bắt đầu lang thang, lưu lạc ở ngoại quốc, rất khó tìm được băng nhạc giá trị. Ngày đó những ca sĩ thượng thặng như Thái Thanh, Duy Trác, Anh Ngọc… hãy còn bặt tiếng ở trong nước. Mãi đến khoảng 1985, tìm được cuộn băng “Tiếng Hát Mai Hương / Giấc Mơ Hồi Hương”, tôi quý vô cùng. Ngoài Giấc Mơ Hồi Hương, của Vũ Thành, băng nhạc còn những tác phẩm tuyệt diệu khác như Cung Đàn Xưa (Văn Cao), Hương Xưa (Cung Tiến), Tà Áo Văn Quân (Phạm Duy Nhượng), Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng (thơ Phạm Thiên Thư, nhạc Phạm Duy)… Mai Hương hát hay với Phạm Đình Chương, Lê Văn Thiện, Văn Phụng và Huỳnh Anh hòa âm. Cuối băng nhạc, Mai Hương có chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong băng nhạc Mai Hương sau.
Đến tám hay chín năm, không thấy bóng dáng băng nhạc thứ hai của Mai Hương đâu cả. Tôi biết, nhưng không có dịp nghe, Mai Hương vẫn có hát với Ban Hợp Xướng Ngàn Khơi của Trần Chúc hay Ban Tứ Ca Thùy Dương. Và thỉnh thoảng chỉ được nghe Mai Hương hát lẻ tẻ trong những băng nhạc như “Tiếng Chiều Rơi /Lê Văn Khoa”, “Dấu Vết Tình Ta 1/Diễm Xưa”, “Hoài Bắc 1 / Đôi Mắt Người Sơn Tây”, “Hoài Bắc 2 / Người Đi Qua Đời Tôi” và … “Tình Ca Phạm Anh Dũng / Đưa Người Về Phương Đông”. Chỉ mãi gần đây, thính giả yêu nhạc mới được thưởng thức băng nhạc đó, mới, với hoàn toàn giọng hát của Mai Hương. 12 bản nhạc, đa số thuộc nhạc tiền chiến, bất diệt, sáng tác bởi những tên tuổi lớn của nhạc Việt như Văn Cao, Vũ Thành, Dương Thiệu Tước, Tô Vũ, Tử Phác, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Văn Quỳ, Đan Trường… rồi Ave Maria của Gounod, hòa âm do những nhạc sĩ lừng danh Văn Phụng, Nhật Bằng, Lê Huy và Vũ Tuấn Đức đã thừa sức bảo đảm trình độ nghệ thuật cao của băng nhạc “Tiếng Hát Mai Hương / Nhặt Cánh Sao Rơi”.
Về Văn Cao. Nếu ông không có những bài hát vớ vẩn, tôi không thích chút nào và tôi không tưởng tượng là do Văn Cao sáng tác, như Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch, Công Nhân Việt Nam…, tôi sẽ nghĩ Trịnh Công Sơn đúng khi viết: “…Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng… Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng… tôi nghe trong âm nhạc anh gió vẫn chuyển và cây thay lá…”.
Từ những bài nhạc hùng như Gò Đống Đa, Chiến Sĩ Việt Nam, Thăng Long Hành Khúc Ca… đến tình ca như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu (Chinh Phụ Khúc), Cung Đàn Xưa, Suối Mơ (Bài Thơ Bên Suối), Bến Xuân (Đàn Chim Việt)… mà tuyệt đỉnh là Thiên Thai và Trương Chi, đều là những khúc nhạc có giá trị và đã tồn tại cả nửa thế kỷ và sẽ mãi mãi lưu truyền về sau.
1947. Sau chiến thắng sông Lô của quân Việt chống Pháp, nhiều nhạc sĩ cảm hứng viết thành bài hát, Lương Ngọc Trác viết Lô Giang, Phạm Duy viết Tiếng Hát Trên Sông Lô… Riêng Văn Cao, khác hẳn, ông đã hoàn thành một tác phẩm lớn lao Trường Ca Sông Lô, đó là bản nhạc mở đầu cho băng nhạc “Nhặt Cánh Sao Rơi”. Mai Hương cùng Vũ Anh, Kim Tước và Quỳnh Giao đã đưa thính giả vào thế giới của giai đoạn quân kháng chiến Việt Nam (không chỉ của Việt Minh) chống Pháp ở vùng Việt Bắc ngày xưa. Đoạn mở đầu ở âm giai Ré Trưởng, chậm và tình cảm, tả cảnh êm đềm của sông Lô trong mùa Thu: “Sông Lô, sóng ngàn Việt Bắc, bãi dài ngô lau, núi rừng âm u Thu ru bến sóng vàng, từng nhà mờ biếc chìm một màu khói Thu…” Chiến tranh bùng nổ: “…Sông Lô sóng ngàn kháng chiến, cháy bờ lau thưa, đã tàn thôn trang…”
Và chiến thắng Sông Lô, nhạc nhanh hơn, chuyển thẳng qua Sol Trưởng: “…Trên dòng sông trở về, đoàn người reo mừng vui Trên sóng nước biếc, trôi đầy sông bao đám xác thù…
Dòng sông vui mừng cùng dân chúng: “…Dân hân hoan nghe sóng reo vi vu xa xa…” Đến âm giai Si Trưởng với nhịp hành quân hùng mạnh của “…đoàn quân thời chinh chiến…chiến sĩ sông Lô”. Màn đêm buông xuống, nhạc lắng đọng, giọng Mai Hương chậm, truyền cảm: “Về trong đêm gió rét. Từng sân vui bóng người quanh lửa hồng” Bản nhạc sau đó trở về Sol Trưởng, nhạc vui nhanh khi thanh bình về lại với dòng sông và dân chúng bắt đầu xây dựng lại đời sống mới: “…vui hát ca hòa vui hát ca…buông lưới đánh cá…đắp nhà”. Cuối cùng, để chấm dứt, nhạc chậm lại, trở lại Ré Trưởng của đoạn mở đầu để Mai Hương, Vũ Anh, Kim Tước và Quỳnh Giao kết thúc bằng vài câu nhạc tình cảm nhẹ, tả cảnh mùa Xuân của dòng sông: “…Mùa Xuân tới, nước băng qua ngàn, nuớc in ven bờ xanh ôm bóng tre Dòng Sông Lô trôi…” Trường Ca Sông Lô của Văn Cao không dài lắm nhưng rất đều đặn, cách chuyển âm giai từ đoạn này sang đoạn khác khéo léo, xứng đáng là bản Trường Ca đầu tiên của âm nhạc Việt Nam. Trường Ca Sông Lô của Văn Cao đã mở đường cho những trường ca Việt Nam khác của Phạm Đình Chương ( Hội Trùng Dương), Lê Thương (Hòn Vọng Phu) và Phạm Duy (Mẹ Việt Nam, Con Đường Cái Quan, Bầy Chim Bỏ Xứ và Hàn Mặc Tử).
Về tình ca, có lẽ không có bài nào của Văn Cao và có lẽ khó có bài nào của bất cứ nhạc sĩ Việt Nam khác có thể so sánh với hai nhạc phẩm Thiên Thai và Trương Chi. Thế giới âm nhạc tình yêu của Văn Cao là hình ảnh của Thiên Thai trong giấc mộng Đào Nguyên và tâm sự của Trương Chi, truyện truyền kỳ, nhưng hình như cũng là tâm sự của chính ông, người nghệ sĩ cô đơn. Không biết về đời sống thực của ông, chắc ông cũng có gia đình êm ấm, nhưng về nghệ thuật nhiều khi tôi thấy ông có vẻ đơn độc, khác người: “Chiều nay run rẩy tha đôi cánh Một bóng sơn ca đến lạc loài” (thơ Văn Cao)
Trong băng nhạc “Nhặt Cánh Sao Rơi”, ta gặp lại chuyện cổ tích Trương Chi-Mỵ Nương. Trương Chi là một hình ảnh ám ảnh Văn Cao khá mạnh. Trong Cung Đàn Xưa đã có bóng hình của chàng Trương Chi xấu số: “…Chiều năm nay bóng người khơi thương Tiếng đàn gieo oan giấc mộng chàng Trương…”. Mai Hương đã đem hết tâm hồn diễn tả bản nhạc của chàng Trương Chi Văn Cao. Bài hát cả nhạc lẫn lời viết thật tài tình. Bắt đầu bằng những câu nhạc chậm của Ré Thứ miêu tả khung cảnh trăng nước hòa vào tiếng hát của họ Trương. Câu đầu tiên đã hay: “Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ…” Không nói đến nhạc vội. Chỉ bàn về lời. Trăng nước thành thơ đã là hay nhưng “trăng nước chưa thành thơ” thì thật tuyệt lạ. Tiếng hát Trương Chi xuất hiện cùng với mùa Thu: “…Ôi, tiếng cầm ca Thu tới bao giờ…” Rồi giọng Mai Hương có vẻ lãng mạn khi diễn tả trong đêm khuya vắng, Mỵ Nương lả lơi nghe tiếng đàn hát của người lái đò từ chốn phòng loan, nơi Tây Hiên. Mai Hương, buồn thấm thiết đưa hồn người đến lúc: “…Oán trách cuộc từ ly não nùng…” Và đến lúc thuyền và người chìm sâu đáy nước. Nhưng vẫn có đâu đó: “…Từng khúc nhạc xa vời, trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi…” Hay: “…Dâng ứa trăng về khuya, bao tiếng ca ru mùa Thu” Mưa gió đến, nhạc chuyển bất ngờ, dồn dập vào Sol Trưởng: “Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn, còn nghe như ai nức nở và than Trầm vút tiếng gió mưa, cùng với tiếng nước róc rách, ai có buồn chăng Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn, về phương xa ai nức nở và than Cùng với tiếng gió vương, nhìn thấy ngấn nước lấp lánh, in bóng đò xưa…” Mai Hương hát chỗ này đúng ý viết nhạc. Rất quan trọng phải hát đúng ở đây vì Văn Cao dùng những dấu lặng sau mỗi nốt nhạc ở chỗ này thật kỳ diệu và diễn tả rõ được những giọt mưa rơi như những giọt nước mắt trên phím ngà. Nghe kỹ ta có thể “nghe” được “tiếng nước róc rách” của giọt mưa, hay “nhìn” thấy “ngấn nước lấp lánh” của dòng sông, cũng nhờ những dấu lặng đặt đúng chỗ. Đã một lần, tôi nghe có một ca sĩ có giọng rất tốt, rất dài hơi hát Trương Chi và ở đoạn này đã “nuốt” mất những dấu lặng làm mất ý nghĩa. Hai chữ “gió” ở những nốt nhạc cao và được láy. Mỗi chữ là bốn móc đơn được nối vào nhau, láy, để diễn tả “gió”, chữ thành dài ra nghe rất tượng thanh. Mai Hương, buồn não nề, đưa người trở lại âm giai chính Ré Thứ, trở lại với chính tâm sự của chàng Trương Chi thời đại,Văn Cao, người nghệ sĩ cô đơn: “Đò ơi ! Đêm nay giòng sông Thương dâng cao, mà ai hát dưới trăng ngà Ngồi đây ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng ta…” Và để chấm dứt, ngậm ngùi, một câu hỏi của Văn Cao như cho chính mình: “… Đâu bóng thuyền Trương Chi ?” Gần đây tôi có xem một cuộn video về Văn Cao cũng có Trương Chi, Thiên Thai… xuất bản từ trong nước ra. Chỉ có một ấn tượng mạnh duy nhất là giọng nói và hình ảnh thanh thoát của Văn Cao với chòm râu dài bạc lướt thướt. Còn hòa âm không có gì xuất sắc và kỹ thuật thu thanh nghèo nàn. Lại nữa, các ca sĩ không đủ tài diễn tả được những bài hát. Lúc nhạc đến lúc thật là buồn thì lại nhoẻn miệng cười tươi đẹp như hoa nở giữa mùa xuân, thật chướng (điểm này cũng thường thấy ở những video nhạc Việt Nam xuất bản ở hải ngoại). So với Trương Chi và Trường Ca Sông Lô do Mai Hương hát thì đúng là một vực một trời. Bao giờ mới thấy một băng nhạc có giá trị gồm chỉ những bản của Văn Cao? Nhờ các trung tâm nhạc như đứng đắn như Thúy Nga, Diễm Xưa…trả lời.
Bản thứ hai trong băng nhạc sau Trường Ca Sông Lô là Nhớ Trăng Huyền Xưa của Nguyễn Văn Quỳ. Ông nhạc sĩ họ Nguyễn chỉ có rất ít nhạc truyền lại cho hậu thế trong đó có Nhớ Trăng Huyền Xưa. Thường thì ta chỉ nghe thấy người bàn đến “tóc huyền” hay “mắt huyền” hoặc “áo huyền” và huyền của tóc, mắt, áo nghĩa là mầu đen. Chắc chắn Nguyễn Văn Quỳ không ám chỉ “trăng… đen” vì trong bài hát trăng rất là sáng. Có lẽ là “trăng huyền hoặc” thì đúng hơn. Cũng có thể là “trăng khuyết” hay “trăng treo ngang trời”. Bản nguyên thủy viết bằng Blues. Nhật Bằng, vẫn còn đủ phong độ của con chim đầu đàn của ban nhạc nổi danh Hạc Thành ngày xưa (gồm Nhật Bằng, Nhật Phượng, Thể Tần và Hồng Hảo). Anh đổi Nhớ Trăng Huyền Xưa sang Tango và Boléro sống động hơn. Mai Hương hát thật hay, nhịp nhàng theo Tango mở đầu bản nhạc: “Bóng trăng dần xuống, hàng cây hắt hiu theo gió buồn Mây trắng mờ trong bóng đêm, không gian lắng chìm vắng im…” Nửa bản sau là Bolero, Mai Hương chợt vút lên ngay trong những chữ đầu tiên: “Dưới trăng huyền xưa, từng ánh lung linh chan hòa muôn gió biếc Tìm đến bên hoa, gió trăng nhè nhẹ mơn mơn cánh yêu kiều…” Bản nhạc chấm dứt, tiếng hát vẫn vương vấn.
Dương Thiệu Tước là một trong những nhạc sĩ tiền phong của âm nhạc Việt Nam. Ông sáng tác nhạc theo đủ nhạc điệu. Bản nhạc phổ thông nhất vì dễ trình bày là Bóng Chiều Xưa (lời Minh Trang). Những tuyệt tác của ông như Đêm Tàn Bến Ngự, Áng Mây Chiều, Tiếng Xưa… thì quá nhiều, không thể kể hết ở đây. Bản nhạc riêng tôi thích nhất của Dương Thiệu Tước là Bến Xuân Xanh, bản nhạc Valse hay nhất của ông và có lẽ cho đến nay, cũng là bản Valse hay nhất và dài nhất của nhạc Việt Nam. Lần này Mai Hương đem Tango của Dương Thiệu Tước đến với Cánh Bằng Lướt Gió. Bài hát có âm hưởng, tình cảm nhẹ nhàng của thời văn nghệ tiền chiến: “Bên phương trời đượm bao gió sương, mây bao la man mác âm thầm Chiều chiều buồn âm u tiếng trầm trầm giòng sông nước cuốn cuốn…”
Giữa Thập Niên 1950, phong trào “Nhân Văn Giai Phẩm” ở miền Bắc Việt Nam nổi dậy. Đến bây giờ tôi vẫn còn lạnh người đọc những dòng chữ như: “Tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ” (thơ Trần Dần) hay vẫn kính phục những ý tưởng như: “Yêu ai cứ bảo là yêu Ghét ai cứ bảo là ghét Dù ai ngon ngọt nuông chiều Cũng không nói yêu thành ghét Dù ai cầm dao dọa giết Cũng không nói ghét thành yêu…” (thơ Phùng Quán) Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào đòi quyền phát biểu tự do của những nhà trí thức, văn sĩ, họa sĩ, tư tưởng gia, thi sĩ, giáo sư… Những tên tuổi như Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung,Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán… đã làm rung chuyển tận gốc rễ Xã Hội Chủ Nghĩa Cộng Sản ngày đó và vẫn còn ảnh hưởng đến mãi sau nàỵ Về nhạc sĩ có ba người tham dự phong trào là Văn Cao, Đặng Đình Hưng và Tử Phác. Tử Phác có ít tác phẩm lưu truyền nhưng đều xuất sắc cả. Tử Phác và Lương Ngọc Châu có một bài hát hay vô cùng là Tiếng Hát Lênh Đênh, tựa đề của cuốn băng đầu tiên của Anh Ngọc ở hải ngoại.
Băng nhạc Nhặt Cánh Sao Rơi có Mai Hương hát Tiếng Hát Quay Tơ là một bản Valse do Tử Phác sáng tác và là bản Luân Vũ tương đối nhanh, duy nhất trong băng nhạc rất phù hợp với nhịp của máy quay tơ. Đây không phải là chuyện nàng quay tơ, anh đan áo trong thời bình như bài nhạc thơ Thoi Tơ của nhà thơ Nguyễn Bính và nhạc sĩ Đức Quỳnh. Đây là chuyện quay tơ của thời chiến. Mai Hương ở Tiếng Hát Quay Tơ là những lời thầm thì, hiền dịu, những tâm sự đằm thắm của người đàn bà gửi gấm vào tấm vải may áo cho người yêu đang ở nơi biên cương,của những hàng nước mắt dưng dưng nhớ người ở xa… Hình ảnh của thiếu phụ ngồi quay tơ trong một buổi chiều nắng nhẹ, bỏ hết mọi chuyện và chú tâm vào việc đan áo rét cho người người chiến sĩ của nàng đang ở chốn sa trường là một hình ảnh “cổ điển”, một hình ảnh thật đẹp, thật cảm động của thời đại văn minh tiền chiến: “…Quay, quay, thương nhớ quyến vào tơ Quay, quay, xe áo rét dâng chàng Rộn ràng tơ lướt tới người chiến sĩ yêu Quay, quay, thương nhớ quyến vào tơ Quay, quay, chăn ấm quấn thân chàng Mỗi một đường tơ là mối dây tình trong lòng em dâng người hiên ngang…”
Bản “Nhạc Chiều” của Dzoãn Mẫn thật tuyệt diệu. Một nửa đầu viết theo Luân Vũ 3/4. Mai Hương chậm, nhẹ, vương vấn: “Chuông chùa vương tiếng ngân, âm thầm trong chiều vắng Đường tơ lắng buông trong huy hoàng…” Qua điệp khúc, nhạc ở 4/4, nhanh hơn. Mai Hương hát thêm giọng hai, quyện lấy giọng chính, vui hơn: “Vương sầu làm chi cho ngày thắm phai Hãy vang tiếng tơ vui đi cho ngày mai….” Mai Hương rồi linh hoạt, hát tự đuổi theo giọng chính của mình: “Nên ngừng bâng khuâng nghe muôn tiếng ca Cố quên đau thương cho vui lòng ta…” Bản nhạc trở về một giọng hát, âm điệu chậm 3/4, như đoạn đầu: “Nhạc chiều êm đưa trong vườn khuya lưu luyến Âm thanh ghi lấy vài lời u huyền…”
Biệt Ly (“Biệt ly nhớ nhung từ đây…”), bản nhạc hay thấy hát nhất của Dzoãn Mẫn, nhưng Nhạc Chiều có lẽ là bản hay nhất của ông. Và Mai Hương hát Nhạc Chiều thật là điêu luyện.
Một trong những bản nhạc tương đối giản dị mà thật hay, hay lạ lùng, nhưng chả mấy khi được nghe là Trách Người Đi của Đan Trường. Ngày xưa ở Việt Nam tôi chỉ nhớ lại được Pat Lâm, nam ca sĩ người Hoa, hay hát bài này. Mai Hương hát Trách Người Đi rất não lòng. Văn Phụng hòa nhạc xuất sắc. Tôi thích nhất lúc có tiếng hát Mai Hương họa theo giọng của chính mình, như tiếng gió hú lướt đi: “…Gió Thu về mang thương nhớ Đến cho lòng thêm chan chứa Lá ngô bay trong sương sầu Biết bao giờ còn thấy nhau…”
Đan Trường, chuyện gì gây cảm hứng để ông viết Trách Người Đi? Ông còn hai bản nữa là Cái Áo The Thâm Tàn và Biệt Quê, tôi biết nhưng chưa được nghe ai hát bao giờ? Đan Trường, ông là ai? Nhạc Việt cần nhạc sử gia để hậu thế biết đến tất cả nhạc phẩm, nhạc sĩ, ca sĩ… của mọi thời đại. Bao nhiêu nhạc phẩm có giá trị đã mất đi, bao nhiêu nhạc sĩ có tài không ai biết đến. Nửa thế kỷ trước đã có một tờ báo chỉ chuyên về nhạc. Tôi không nhớ tên nhưng nhớ tờ báo sống được ít lâu và cũng chỉ là tờ báo về âm nhạc Việt Nam duy nhất từ xưa đến giờ!
Âm nhạc Việt Nam có những nhạc sĩ chỉ cả đời chỉ có một bản duy nhất thật hay và thôi. Như Con Chim Lạc Bạn của Phạm Văn Chừng, Tan Tác của Tu My… Có thể tôi không được may biết đến, hay vì họ sáng tác nhiều hơn nhưng vì lý do nào đó không được phổ biến hết. Đào Thừa Liệt cũng là một trong những người này, chỉ có Bến Đò Xưa. Bản hát cũng có lịch sử của nó. Đào Thừa Liệt thương một cô lái đò. Mối tình không thành. Ông làm ra Bến Đò Xưa, rồi bỏ đi Pháp sinh sống. Chuyện tình thật lãng mạn của thời tiền chiến. Bài hát thật giản dị. Tuy vậy nếu hát đúng như viết thì hơi dài dòng vì bản nguyên thủy viết theo Slow trong khi có rất nhiều nốt nhạc dài hơn dấu móc đơn, có nhiều nốt đen liên ba (là nét đặc thù của tân nhạc Việt Nam), nhiều nốt đen. Lê Huy, người đã từng hoạt động âm nhạc từ những ngày ban Phượng Hoàng còn ở Việt Nam, phụ trách hòa âm cho Bến Đò Xưa đã khéo léo đổi cả bài nhạc sang Bolero và do đó giọng Mai Hương trở nên rất uyển chuyển, nhịp nhàng. Lời bản nhạc êm như mơ: “Chiều xưa, có ai qua bến sông Hồng mộng mơ Dìu dặt, đôi lời hò còn vương vấn nhớ nhung…” Trong băng nhạc Bến Đò Xưa đề là sáng tác của Đào Thừa Liệt. Thật ra bản nhạc có sự góp sức của Nguyễn Kim nữa. Để cho chính xác hơn: Con Đò Xưa là của Đào Thừa Liệt và Nguyễn Kim.
Hoàng Phú, tác giả của Ngày Xưa, bản nhạc nhắc đến hai dòng sông lịch sử, Hát Giang và Bạch Đằng Giang. Hoàng Phú là em ruột Hoàng Quý, người sáng tác Cô Láng Giềng, Chùa Hương, Đêm Trong Rừng…. Sau khi Hoàng Phú đổi tên thành Tô Vũ. Ông có được ba tác phẩm tình ca nổi tiếng để đời. Đó là Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa, Tạ Từ và Tiếng Chuông Chiều Thu. Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa là một trong những bản đắc ý của Anh Ngọc ngày xưa. Không ai hát bản này bằng anh và rõ ràng không có gì để nói thêm. Tạ Từ thì có lẽ phải nói đến Duy Trác. Bản này anh hát làm rung động bao người. Cả Anh Ngọc và Duy Trác đều đã hát Tiếng Chuông Chiều Thu và đều hay cả nhưng tôi bàng hoàng nghe Mai Hương. Giọng hát Mai Hương đã làm tâm hồn người nghe chìm xuống vào một buổi chiều Thu với lá rơi nhè nhẹ, với nắng Thu nhạt nhòa, với gió heo may… và có tiếng chuông chùa vọng lại. Tô Vũ đã đắm trong mộng tưởng, trong ước vọng hòa bình có “chuông khơi mùa nắng mới”. Có hai điểm trong bản nhạc tôi muốn bàn qua: Thứ nhất: “…Ai xót ly hương mấy Thu vàng úa Nhạc say mùa xương máu Tóc xanh bơ phờ bù rối…” Chữ “mùa xương máu” ở đây nghe hơi ghê rợn, “nhạc” mà “say mùa xương máu” thì e là loại nhạc sắt máu, không hợp với bản nhạc trữ tình, lãng mạn. Có thể nếu đặt địa vị vào của tác giả thời đó đang chiến tranh đẫm máu thì nghe thông cảm hơn chăng? Thứ hai. Trong nguyên tác bản Tiếng Chuông Chiều Thu, đoạn kết của Tô Vũ là: “…Người phương trời xa xôi, gửi em lời yêu thương Khi lòng mơ màng trầm lắng tiếng chuông chiều Thu Ngày nào khi chiến chinh xong Hồi chuông reo vui muôn tiếng đồng Chuông khơi mùa nắng mới, tình xưa đẹp bao nhiêu Hồn anh thầm nhắn tiếng chuông ban chiều” Mai Hương hát theo bản của nhạc sĩ Hoàng Trọng viết lại cho ban Tiếng Tơ Đồng: “…Người phương trời xa xôi, gửi em lời yêu thương Khi lòng mơ màng thầm lắng tiếng chuông chiều Thu Chuông vang lời ước xưa, tình ta đẹp bao nhiêu Hồn anh thầm nhắn tiếng chuông ban chiều” Nhạc sĩ Hoàng Trọng đã bỏ hẳn “Ngày nào khi chiến chinh xong. Hồi chuông reo vui muôn tiếng đồng” và chữa thêm vài chữ. Không hiểu bỏ hai câu đó đi thì có hay hơn bao nhiêu, nhưng tôi tiếc không được nghe thêm dòng nhạc nguyên thủy của Tô Vũ.
Cũng như CD Gió Thoảng Hương Duyên của Kim Tước, không phải tình cờ cả hai băng nhạc của Mai Hương đều có tên từ những bản nhạc của Vũ Thành: Giấc Mơ Hồi Hương và Nhặt Cánh Sao Rơi. Tôi nghĩ cố nhạc sĩ Vũ Thành đã để lại niềm kính phục của bao người khác trong đó có Kim Tước và Mai Hương. Phải nói Vũ Thành là nhạc sĩ có công lao nhiều nhất để xây dựng nền âm nhạc Việt Nam và nhất là đã cố nâng cao tầm thưởng ngoạn của thính giả. Tuy Áng Mây Chiều của Dương Thiệu Tước là bản nhạc Việt đầu tiên có mang tính chất nhạc cổ điển Tây Phương nhưng phải đến Vũ Thành thì loại nhạc này mới đến thính giả thật sự bằng những sáng tác của ông và với Ban Nhạc Đại Hoà Tấu Vũ Thành. Những bản như Say Nhạc Canh Tàn, Gửi Áng Mây Hàng… là tiêu biểu cho tính chất cổ điển Tây Phương trong nhạc Vũ Thành. Sau này có những nhạc sĩ khác tiếp tục theo Vũ Thành và có những bản nhạc với mầu sắc của nhạc cổ điển: Cung Tiến với Nguyệt Cầm, Mắt Biếc… Lê Văn Khoa với Gọi Nhớ… Phạm Duy thì có một bản Đường Chiều Lá Rụng. Giấc Mơ Hồi Hương, bản nhạc nổi danh nhất của Vũ Thành. Bản nhạc thương nhớ “em”, thành phố Hà Nội. So với những bài khác của ông, bài này thật dễ nghe vì truyền cảm. Hai bản của Vũ Thành trong băng nhạc mới của Mai Hương là Nhặt Cánh Sao Rơi và Nhớ Bạn. Hai bản này, theo ý tôi, là gạch nối giữa Giấc Mơ Hồi Hương và những bản gần như hoàn toàn nghiêng về cổ điển Tây Phương đã kể trên. Trong cả hai bản nhạc, Vũ Thành không dùng chữ “anh” và “em” mà dùng “bạn” và “tôi”. Toàn bộ có vẻ như là nói về bạn bè thương nhớ nhau hơn là về tình yêu lứa đôi. Tôi không rõ ý thật của ông nói về người bạn hay người yêu. Tuy vậy những chữ như “tay nắm tay” trong Nhặt Cánh Sao Rơi hay “niềm ân ái xưa” của Nhớ Bạn thì lại có nghiêng về tình trai gái. Nếu vậy nhạc sĩ Vũ Thành cũng “lạ”. Thành phố ông lãng mạn gọi là “em” mà người yêu lại “mắc cở” gọi tránh đi là “bạn”! Nhặt Cánh Sao Rơi và Nhớ Bạn, tôi nghĩ đều là tuyệt tác của họ Vũ. Cả hai bản nhạc như gợi niềm hối tiếc những tình cảm, những “bạn” đã xa vắng… Mai Hương đã hát Giấc Mơ Hồi Hương thật tình cảm và làm rung động thính giả đến mức tột cùng. Mai Hương, trong Nhớ Bạn và Nhặt Cánh Sao Rơi, khác hẳn. Biến chuyển theo dòng nhạc kiêu sa, đài các của Vũ Thành. Bây giờ tiếng hát Mai Hương là của lụa là, gấm vóc: “Chiều phai nắng rụng lá khô bên thềm Chiều vương khói nhạc lắng buông êm đềm Gió chiều nhẹ ru ngàn cây thoáng vương khúc ly ca Nhắc bao ngày qua khuất mờ gây bao niềm thương nhớ…” (Nhặt Cánh Sao Rơi) Và: “Xuân vương trên ngàn hoa, nhắc bao sầu nhớ mơ màng Mây buông trong chiều vắng, như luyến tiếc giấc mơ đã tàn…” (Nhớ Bạn) Tôi đã nghe Nhớ Bạn do Anh Ngọc hát ngày xưa với hòa âm cổ điển phức tạp và công phu của Ban Đại Hòa Tấu Vũ Thành. Lần này nghe Tuấn Đức hòa âm, tuy giản dị nhưng vẫn làm sáng nét nhạc của bài hát.
Bản cuối cùng, bản đáng nói đến nhất trong băng nhạc Nhặt Cánh Sao Rơi là Ave Maria của Gounod. Nhạc sĩ người Pháp Gounod chính ra chuyên viết operas, nổi tiếng nhất là Faust. Ông có viết một số nhạc khúc và trong đó có Ave Maria. Có hai bản Ave Maria nổi tiếng nhất thế giới, một của Franz Peter Schubert và một của C-harles Francois Gounod (Việt Nam cũng có Ave Maria của Văn Phụng). Cả Schubert và Gounod đều là nhạc sĩ vào thế kỷ thứ 19. Ave Maria của Schubert là một tuyệt phẩm. Bản nhạc hay từ đầu đến cuối, rất đều đặn. Bản của Gounod, theo ý tôi có lẽ còn hay hơn, vì những nốt cao ngất ngây của đoạn sau đã được sửa soạn thật kỹ lưỡng bằng những dòng nhạc độ cao độ thấp hơn của đoạn đầu. Phạm Duy viết lời Việt cho bản này thật là hay. Vào đầu, Mai Hương chậm rãi, tôn kính: “Cầu xin Maria, thấm nhuần một lòng thương chúng con Đoái hoài một đàn con khát khao…” Dòng nhạc cứ thư thả, trầm trầm như vậy… Rồi tiếng cầu nguyện thôi thúc hơn, cao lên dần: “Xin cầu một kiếp nào, mối tình xanh mãi mầu Tiếng hát chầu đưa bao duyên lành mới qua cầu” Mai Hương, cao nhiều hơn nữa: “Hoa trong muôn vườn hát khoe mầu” Và cực điểm, tiếng hát vút lên: “Người cười trong ánh nắng” Giọng Mai Hương trở thành chứa chan, bao dung: “Tiếng reo yên lành Đây đó ta cùng nép dưới bàn thờ xin cầu lời thương nhau” Bài hát âm giai chính là Do Trưởng nhưng bản nhạc được chấm dứt bằng hai nốt Sol, thật đặc biệt: “A men” Ave Maria là điểm cao nhất của băng nhạc “Nhặt Cánh Sao Rơi”. Ave Maria là điểm cao nhất của tiếng hát Mai Hương từ xưa đến giờ.
Những ngày ở Việt Nam xưa kia, Mai Hương hát hay, hiền dịu, dễ thương. Đó là những ngày của Dịu Dàng (Văn Phụng), của Hoa Bướm Ngày Xưa (Nguyễn Hiền)… Ở xứ ngoài, mấy năm trước đây, trong băng nhạc “Giấc Mơ Hồi Hương”, Mai Hương hát hay hơn, đậm, chín… hơn nhiềụ Với băng nhạc “Nhặt Cánh Sao Rơi”, Mai Hương đã đi xa hơn nữa. Giọng ca đã đến một đỉnh cao. Nghe xong băng nhạc “Nhặt Cánh Sao Rơi”, tôi tự hỏi: “Những bài hát này, bây giờ, có ai hát hay bằng Mai Hương?” Câu hỏi cũng đã thầm trả lời.
Phạm Anh Dũng Santa Maria, California, USA Ngày 10, tháng 10, năm 1994
Trong nhạc tình tân nhạc của Việt Nam thường hay có “mắt xanh.” Thực tế làm gì có người Việt Nam nào có mắt mầu xanh trừ khi đeo contact lenses mầu xanh hay là mắt của “con lai” hoặc là mắt của “con ma!” Như vậy “mắt xanh” nghĩa là gì?
Nghĩa thứ nhất “mắt xanh,” theo ý nhiều người cảm nhận, chỉ là ám chỉ người đàn bà còn trẻ và dĩ nhiên có mắt… đẹp.
Nghĩa thứ hai “mắt xanh,” nghĩa theo sách, là để chỉ sự bằng lòng hay vừa ý. Theo Điển Hay Tích Lạ của Nguyễn Tử Quang:
““Mắt xanh” do chữ “thanh nhãn,” tức là mắt ở giữa là tròng đen (hoặc xanh) hai bên tròng trắng.
Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưu rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn, Sơn Đào, Hướng Tú và Vương Nhung, người thường gọi là “Trúc lâm thất hiền” (bảy người hiền ở rừng trúc).
Ông là người chán đời, thích tiêu diêu trong vũ trụ. Thơ của ông phần nhiều tả tình, hoặc than cho thói đời đen bạc, hoặc chán cho thế sự thăng trầm, hoặc ngao ngán cảnh phú quý công danh như phù vân… Tư tưởng của ông có lúc lại kỳ dị. Như trong bài văn xuôi “Đại nhân tiên sinh truyện,” ông ví con người trong vũ trụ như con rận trong quần.
Ông phản đối Nho giáo. Ông bảo: “Không có vua thì vạn vật ổn định; không có bề tôi thì mọi việc được trị; không có kẻ sang thì kẻ hèn không oán; không có kẻ giàu thì kẻ nghèo không tranh của. Ai nấy đều đủ ăn mà không cầu gì nữa.” Thật là một tư tưởng “vô chính phủ” nhưng cũng lạ là vua Tấn vẫn để ông ở yên.
Nguyễn Tịch lại có một thái độ lạ lùng. Khi tiếp khách hễ là hạng quân tử, là hạng người vừa lòng mình thì Nguyễn Tịch nhìn thẳng bằng tròng mắt xanh; trái lại khách là kẻ tầm thường, người không vừa lòng mình thì ông nhìn bằng đôi tròng trắng.”
Do điển đó, sau này người ta dùng chữ “mắt xanh” để chỉ sự bằng lòng, vừa ý và từ đó có chữ “lọt vào mắt xanh.”
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, lúc Từ Hải gặp Thúy Kiều ở thanh lâu, Từ Hải hỏi Kiều:
“…Bấy lâu nghe tiếng má đào, Mắt xanh chẳng để ai vào có không?”
Chỗ này Từ Hải hỏi: “Mắt xanh chẳng để ai vào có không?“ là ý muốn hỏi Thúy Kiều: “Nàng đã thấy ai vừa ý chưa? Đã có chàng nào “lọt vào mắt xanh” chưa?”
Bây giờ đến vài bản tình ca Việt Nam có “mắt xanh”:
Mắt xanh… xanh: “Cho mắt em trong mầu xanh xanh, cho tiếng em ru thần thánh Dáng em dịu hiền, cánh môi em hồn nhiên…” (Thì Thầm/nhạc và lời Lại Quốc Hùng)
Mắt xanh… xao: “…Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao…” (Diễm Xưa/nhạc và lời Trịnh Công Sơn)
Mắt xanh… mờ: “…Hẹn mãi, cho biết đến bao giờ cho đôi mắt xanh mờ, tím như không gian đợi chờ…” (Vườn Tàn Phai/nhạc và lời Hoàng Quốc Bảo)
Mắt… mơ xanh mờ: “…Và tóc rối bời hồn đang lạnh trống Đôi mắt mơ xanh mờ theo ánh tà dương…” (Sao Đêm/nhạc và lời Lê Trọng Nguyễn)
Mắt xanh… thắm trong tâm hồn: “…Tiếng ai còn âm âm, tóc ai còn thơm thơm, mắt ai còn xanh thắm trong tâm hồn” (Mắt Biếc/nhạc và lời Cung Tiến)
Cuối cùng là một bản nhạc với mắt hết mầu…xanh: “Nếu anh về môi em phai mầu thắm Nắng ngoài sân vàng lỡ tuổi xuân qua Nếu anh về mắt em hết mầu xanh Lệ tràn mi nhìn nhau đau tiếc nuối…“ (Nếu Mai Anh Về/nhạc và lời Phạm Anh Dũng)
Cũng xin viết thêm là bài viết này chỉ bàn đến “mắt xanh” còn “mắt biếc” thì nhờ quý vị nào đó viết dùm.
Phạm Anh Dũng Santa Maria, California USA
Mời nghe/xem Nếu Mai Anh Về (Phạm Anh Dũng) Mỹ Lệ hát, Quốc Dũng hòa âm, Đào Cận video: https://youtu.be/ERdK7QjTskw
Tôi vẫn thích sưu tầm ảnh đẹp. Nhìn ngắm một bức ảnh đẹp, thấy lòng mình như lắng xuống, thấy tâm hồn như dịu lại và cuộc sống như cũng dễ chịu hơn. Không chỉ thích ảnh đẹp tôi còn thích đặt tên cho ảnh. Nhiều ảnh không cần phải đặt tên, thế nhưng có đôi lúc gặp bức ảnh gợi nhiều cảm xúc tôi vẫn muốn tìm cho ảnh một cái tên.
Tấm ảnh tôi xem được ở nhà chị Dung là một ảnh như thế. Tấm ảnh khá quen thuộc với những người thân của chị. Tôi gọi tên ảnh là “Hình ảnh một buổi chiều”.
Tôi nhớ, trong chuyến đi Nam Cali ngắn ngày nhiều năm trước, chị Dung nhắn vợ chồng tôi ghé nhà chơi. Trước đó tôi được chị gửi tặng tập sách quý với chữ ký chỉ phác vài nét tên chị, cũng dung dị như tính cách của chị. Trong sách có cái “note”, chị nói phải gửi qua bưu điện vì chờ mãi chẳng thấy xuống để đưa tận tay. Tập sách đầy đặn, là “Tuyển tập Lê Đình Điểu”.
Chị Dung có lối nói chuyện thật tự nhiên và thân mật khiến người nào gặp chị lần đầu cũng cảm thấy thoải mái và gần gũi.
Hôm ấy tôi cũng được gặp những con người thật nghệ sĩ trong gia đình chị là chị Bích Huyền (phụ trách “Chương trình thơ, nhạc” quen thuộc đài VOA) và anh chị Phạm Anh Dũng (nhạc sĩ sáng tác, với nhiều ca khúc phổ thơ).
Sau bữa cơm gia đình là buổi “trà đàm” văn nghệ khá lý thú giữa mấy chị em trong nhà. Tôi không định nhắc tên anh Điểu, thế nhưng đến khi chị Bích Huyền đọc câu thơ trong bài thơ nào của Y Dịch,
Lần đầu em hát theo tà áo Lần đầu anh bối rối bàn tay
tôi buột miệng hỏi chị cái lần “anh bối rối bàn tay” ấy có phải là “thuở ban đầu” của anh chị. Hỏi thế là có lý do, tôi nhớ có đọc đâu đó anh Điểu kể chuyện có lần anh phải đỏ mặt xấu hổ vì bị thầy giáo hay cô giáo trong lớp chị “bắt quả tang” anh lóng ngóng đứng chờ chị ngoài hành lang lớp học.
Tôi chỉ nhớ được mỗi câu lục bát của anh, bèn đọc cả nhà nghe và nói tôi thích câu thơ ấy vì rất gần với ca dao và thơ Nguyễn Bính.
Mùa thu có lá ngô rơi Có đôi người mới thành đôi vợ chồng
Chị Dung nói chị cũng thích câu thơ ấy và anh chị đều thích thơ Nguyễn Bính. Rồi vui chuyện, chị kể thêm những bài thơ nào anh viết tặng chị, những bài hát nào hai người cùng thích, những cuốn phim nào hai người cùng xem như là những kỷ niệm ngọt ngào và cả những nơi chốn đầy những “dấu chân kỷ niệm” của anh chị kể từ ngày hai người gặp nhau, yêu nhau trong sân trường Văn khoa. Tôi nhớ chị nhắc tên phim “Vũ điệu trong bóng mờ” (La valse dans l’ombre) và tên bài hát “Tà áo Văn quân” của Phạm Duy Nhượng, như nhắc tôi nhớ ra rằng từng có một bài hát đẹp như thế trong nhạc Việt, kể về câu chuyện… “Một chàng phiêu lãng, ôm đàn tới giữa đời.“
Từ lúc ấy tôi chỉ có mê mải ngồi nghe và nghe, chỉ thỉnh thoảng góp chuyện. Tôi nhớ định nói chị nên viết hồi ký kể lại câu “chuyện hai người” ấy nhưng lại thôi, và chỉ nói thật tiếc là tôi đã không được gặp anh ngày trước.
Đến một lúc câu chuyện tạm ngưng, chị Dung bỗng đứng dậy nói vợ chồng tôi đi theo chị. Chúng tôi bước vào căn phòng nhỏ tĩnh lặng, được chị cho biết là phòng làm việc của anh Điểu. Chị nói từ ngày vắng anh, chị giữ nguyên trạng các vật dụng bày biện trong phòng, như là anh chỉ mới vừa đi xa. Thỉnh thoảng chị vào phòng lau chùi bụi bặm, kéo màn cửa cho ánh nắng rọi vào.
Đứng bên chị, tôi đưa mắt nhìn quanh. Những giá sách, thật nhiều sách, và những tranh ảnh rải rác. Tôi chú ý chiếc khung ảnh trên bàn làm việc của anh. Tấm ảnh đen trắng, mờ mờ. Chị đứng nép một bên vai anh, tựa đầu lên vai anh. Anh cúi nhìn chị, nụ cười ấm áp thương yêu. Cánh tay chị quàng lên vai anh, và bàn tay anh nắm giữ bàn tay chị. Anh có nụ cười thật hiền, chị có miệng cười thật đẹp, để lộ đường răng trắng. Trông anh chị như đôi chim bồ câu quấn quýt không rời.
Tôi đứng nhìn thật lâu, như bị hút vào tấm ảnh, tưởng nhìn thấy được hạnh phúc trên nét mặt chị, trên nụ cười chị và cả trên những lọn tóc chị. Tựa đầu lên vai anh, khuôn mặt chị nằm nghiêng, mái tóc cũng nằm nghiêng. Mái tóc anh từng yêu, từng viết thành bài thơ tặng chị. Tôi không nhớ bài thơ như thế nào nhưng nhớ rằng bên dưới cái tựa chỉ có một chữ “Tóc” ấy anh viết xuống câu dẫn vào bài nhạc “Hình ảnh một buổi chiều” của Lâm Tuyền và Dạ Chung, “Anh không giữ trong tay một kho tàng hay một danh vọng nào cả, anh chỉ giữ hình ảnh một buổi chiều, khi nắng vàng nhuộm mái tóc em.”
“Ảnh cũ lắm rồi,” chị Dung nói. Tôi nói tấm ảnh đẹp giống như bài thơ hay, chẳng bao giờ cũ cả. Tôi lại quên hỏi chị ảnh chụp lúc nào, ở đâu. Không gian ấy có thể là buổi sáng hay buổi chiều nhưng tôi cứ cho là buổi chiều vì nhớ dòng chữ anh Điểu ghi trên đầu bài thơ tặng chị. Nơi chốn ấy có thể là đồi cỏ hay cánh đồng nào ở miền quê. Xa xa, sau lưng hai người, là rặng núi mờ mờ.
Trong thoáng chốc, tôi thấy lòng mình như se lại. Tôi nghĩ đến những lần chị Dung một mình bước vào căn phòng vắng lặng ấy, một mình chị ngắm nhìn những kỷ vật nằm im lìm ấy, và cả tấm ảnh mờ mờ đánh thức trong chị những thoáng hạnh phúc mơ hồ, xa xăm. Chị giữ căn phòng ấy như giữ chút hơi ấm của người chồng muôn thuở.
Sau ngày anh mất, chị Dung đã có những năm sống một mình, lặng lẽ như chiếc bóng trong ngôi nhà đầy kỷ niệm ở Bellflower. Chị làm bạn với hoa lá trong mảnh vườn sau nhà, chị tận hưởng sự tĩnh lặng và cứ một mình một bóng như thế cho đến khi các con chị dọn về ở với chị.
Trở vào phòng khách, tôi nói đùa câu gì đó cho chị vui, nhưng không thấy chị cười. Chị lặng yên như đang suy nghĩ chuyện gì hay đắm chìm trong thế giới nào riêng tư.
Nhớ lần sau cùng tôi gọi điện thoại thăm chị Dung. Chị nói dạo sau này không được khỏe lắm, rồi chị nói sang chuyện khác. Chị Dung là vậy, chị chia sẻ niềm vui, chị giấu kín nỗi buồn. Chị không nói về mình, chị chẳng kể ai nghe, nhiều bạn bè chị không hề hay biết gì về bệnh tình của chị cho đến khi…
Hôm được tin chị mất, tôi tưởng mình nghe lầm, tôi mong là mình nghe lầm.
Cứ mỗi lần hay tin một người thân quen nào đột ngột qua đời, tôi lại có cảm giác thật hụt hẫng như vừa bước hụt vào khoảng không và nhận rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa đến tột cùng của đời sống.
“Thứ Bảy này cả nhà sẽ tiễn đưa chị Dung,” chị Bích Huyền nói với tôi đêm qua. Chị rưng rưng nói chị rất buồn và nhớ.
“Chắc giờ này chị Dung đã gặp lại anh Hà,” sau cùng chị Bích Huyền nói.
“Tôi cũng tin như vậy,” tôi nói vậy, rồi mở cánh cửa sau bước ra ngoài, ngước nhìn bầu trời đêm lác đác sao. Tôi dõi mắt trông về một ngôi sao xa nhất, khi ẩn khi hiện trên nền trời đen thẫm, trông xa vẫn thấy lấp lánh như có một linh hồn.
“Em đi rồi, anh trở về hồn lạnh, mắt sao rơi…“
Câu hát ấy ở trong bài nhạc phổ thơ Y Dịch, bài thơ “Tiễn em” anh viết tặng chị khi tiễn đưa chị lên đường du học Hoa Kỳ, là thời kỳ hai anh chị mới yêu nhau… thì xa nhau. Người phổ bài thơ ấy là em chị Dung, nhạc sĩ Phạm Anh Dũng.
“Hai nốt nhạc ‘sao rơi’ ấy nghe thật là mênh mang,” tôi nói với anh Dũng như vậy.
* * *
Chị Dung đã sẵn sàng và chuẩn bị mọi thứ cho chuyến đi xa của chị. Chị bình thản chờ đợi điều xấu nhất đến với mình; hơn thế nữa, chị mong đợi điều ấy đến với mình.
Chị mong đợi ngày ấy, như anh từng mong đợi chị, như anh và chị từng mong đợi nhau suốt những năm chị du học, suốt những năm anh tù tội. Anh và chị đã quen chờ đợi. Thế nhưng chị không thể bắt anh chờ đợi lâu hơn nữa.
“Mẹ để bố chờ lâu quá rồi, mãi đến 20 năm!” Chị Dung nói với cô con gái mình.
Hai mươi năm của chị Dung chỉ như bóng mây qua, chỉ như giấc mộng dài. Rồi anh chị lại có nhau, lại tay trong tay trên cánh đồng thời gian. Cũng như chị Bích Huyền và bao người thân yêu khác của chị Dung, tôi tưởng nhìn thấy anh đang dang rộng cánh tay về phía chị cùng với nụ cười ấm áp thương yêu, nụ cười thật hiền hệt như trong tấm ảnh ngày xưa ấy.
Anh Điểu “không giữ trong tay một kho tàng hay một danh vọng nào cả”, và chị Dung cũng chỉ giữ có mỗi tấm ảnh mờ mờ ấy. Tấm ảnh “Hình ảnh một buổi chiều”.
Lê Hữu
(*) Hà là tên gọi của anh Điểu trong gia đình.
********************
Tháng Bảy Chưa Mưa (thơ Y Dịch-Tiễn Em, nhạc Phạm Anh Dũng) Tuấn Ngọc hát Duy Cường hòa âm, Đào Cận thực hiện video:
********************
Chị Dung
Chị ruột yêu thương của tôi, tên là Phạm Thị Dung và các bạn chị gọi là Phạm Dung hay Phạm Dung-Lê Đình Điểu (ghép tên chồng vào), nhưng tôi chỉ thích gọi hay viết: chị Dung.
Chị Dung vừa qua đời, tôi bàng hoàng và vì mất chị thành muốn viết vài hàng.
Gia đình tôi tất cả 13 anh em, nay không có chị nữa, chỉ còn 3 và anh chị em tôi không ai có thể so được vói chị. Từ ngày xưa còn bé cho đến bây giờ, lúc nào tôi cũng xem chị như một tấm gương sáng để theo.
Chị Dung ít nói nhưng nghiêm và tôi chắc chắn các anh chị em chúng tôi đều nể phục nghe lời chị, dù chị không phải là con trưởng ở gia đình. Riêng tôi, tôi còn “sợ” chị vì hồi nhỏ hay bị khảo bài trước khi đi học. Có lẽ vì vậy sau này tôi học cũng tạm đâu vào đấy. Thú thật trong nhà chỉ có chị Dung và anh Vân (cũng qua đời lâu rồi) là đáng kính cảm phục, còn lại đám anh chị em trước sau, kể cả bản thân tôi đều không nhiều thì ít đều không hoàn toàn.
Chị nghiêm nhưng chị cũng rất hiền, rất tốt với mọi người, giúp đỡ tất cả kể cả người lạ nhưng không may. Điểm này chị giống mẹ chúng tôi y hệt. Cụ đã hết tiền dành dụm vì nấu cháo cho người đói ăn hồi nạn đói năm Ất Dậu.
Chị Dung rất thích âm nhạc. Chị đã từng đậu vào Quốc Gia Âm Nhạc, chị thích học mandoline, nhưng nhà không đủ điều kiện để chị học cả chữ và nhạc.
Chị học Trưng Vương, ra trường đậu Tú Tài hạng cao được học bổng đi Hoa Kỳ học.
Trước đó chị bắt đầu quen với anh Điểu và hai người yêu nhau. Khi chị đi Hoa Kỳ năm 1961, với bút hiệu Y Dịch, anh có làm bài thơ Tiễn Em và tôi có viết thành bài nhạc Tháng Bảy Chưa Mưa năm 1992.
Lúc đó còn một kỷ niệm vui là “ai” chụp ảnh chị đang đi xe velosolex đăng lên National Geographic tháng 10 năm 1961, sau khi chị đã đi. Chị không nói, mãi đến sau này tôi mới biết.
Năm 1963, chị tốt nghiệp BS of Nursing và lấy được bằng hành nghề Registered Nurse. Khi về nước chị đi dạy Nursing ở trường Cán Sự Điều Dưỡng và dạy Anh Văn ở Hôi Việt Mỹ. Anh Điểu, chồng chị, làm đến Cục Trưởng Cục Nôi Vụ của Tổng Cục Thông Tin Chiêu Hồi nhưng vẫn không đủ sống thoải mái vì chị vẫn phải giúp đỡ cha mẹ và các anh chị em.
Chị Dung hiền không trách ai bao giờ. Hiền đến nỗi chỉ thở dài, không trách cứ ai, kể cả nhưng người tưởng là bạn nhưng đã làm hại đến chồng con, gia đình mình. Tôi chưa hề thấy chị nói xấu người khác bao giờ.
Nhưng chị cũng rất vững vàng. Sau “giải phóng” 1975, chị mất việc và ở nhà nuôi 3 đứa con bằng cách thổi xôi bán chợ trời khi chồng đi học cải tạo. Khó tưởng tượng và thật là kiên trí, mẹ bồng bế 3 con lôi thôi lếch thếch vượt biên 9 lần, vài lần bị bắt tù, mà vẫn không thoát!
Sau những cái rủi cũng đến cái may. Rồi sau gia đình cũng may qua được Pháp 1983, khi anh Điểu đi học tập về, vì bố chồng chị ngày xưa là Trung Úy Quân Đội Pháp và dù cụ đã qua đời rồi chính phủ Pháp vẫn lo cho gia đình đi.
Tôi đón gia đình anh chị qua Hoa Kỳ năm 1985. Anh Điểu theo nghề ký giả cho báo Việt, nghề bạc bẽo, bận, không có tiền và thỉnh thoảng còn bị “chụp mũ”. Căn bản là lương của chị Dung hành nghề school nurse. Vợ chồng sau cũng mua được nhà cửa ở Bellflower, giữa Orange County và Los Angeles. Gia đình, con cái… hầu như mọi sự do chị lo để anh đi lo chuyện “vác ngà voi”.
Rồi anh Điểu qua đời 1999 vì bệnh bất ngờ và chị Dung “ở vậy” từ đó đến nay, kể cả khoảng 10 năm ở một mình trong căn nhà cũ đầy kỷ niệm. Những năm sau này có con cháu về ở chung cũng đỡ vắng vẻ hơn.
Khoảng 2 năm rưỡi trước đây, chị được bác sĩ cho biết là bệnh nặng cần hóa quang trị và giải phẫu. Chị qua các trị liệu dễ dàng. Nhưng khoảng sáu tháng sau này bệnh quay lại và lần này có không thuốc chữa được.
Ba ngày trước, cháu Y Sa, con gái chị gọi điện thoại cho biết tin dữ. Dù biết chuyện không tránh được, tôi nghẹn lời không nói ra lời và phải cúp điện thoại. Hôm nay nghĩ và viết những dòng này mới thấy chị là một con người thật “đẹp” và tôi dám chắc chị Dung đã dễ dàng siêu thoát về nơi cao, nơi có anh Điểu đang chờ đã 20 năm.